Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 04/01/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành Phố Hà Nội, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 531/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:656/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Bị cáo: Đỗ Thị Th; Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không;Sinh năm: 1982; HKTT: số 29 ngách 30 ngõ 294 K, phường K, quận B, TP. Hà Nội Nghề nghiệp: Nhân viên Công ty TNHH Motor N.A Việt Nam đã bị sa thải ngày 08/01/2021; Trình độ văn hóa: 12/12; Đảng phái, đoàn thể: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Đỗ Minh K (đã chết); Con bà: Lương Thị D, sinh năm 1951. Chồng: Lê Bá Hồng M, sinh năm 1981 và có 02 con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 23/02/2021. Hiện đang bị giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội, (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Huỳnh Phương Nam, luật sư – Văn phòng Luật sư Huỳnh Nam, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, (có mặt).

Bị hại: ông Phạm Đức Tr, sinh năm 1973, trú tại xóm A, xã H, thị xã P, tỉnh Thái Nguyên, (có mặt).

Ông Thiều Anh H, sinh năm 1980; trú tại P2513, tòa 27, chung cư G, phường C, quận B, Hà Nội, (vắng mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Đức L, sinh năm 1971, trú tại xã Hồng Tiến, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên) quen biết Đỗ Thị Th. Tháng 12/2020. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01/10/2018, Đỗ Thị Th được Công ty TNHH Motor N.A Việt Nam - Honda ô tô Tây Hồ (gọi tắt là Công ty Honda ô tô Tây Hồ), địa chỉ: số 197A phố Nghi Tàm, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội ký hợp đồng lao động với chức danh chuyên môn là nhân viên tư vấn bán hàng. Theo quy định số 008/2015-N.A Motor ngày 02/3/2015 của Công ty Honda ô tô Tây Hồ, quy định: Khách hàng phải trực tiếp nộp tiền đặt cọc, tiền mua xe tại phòng kế toán hoặc chuyển khoản qua ngân hàng; Khách hàng tuyệt đối không nộp tiền mua xe cho nhân viên tư vấn bán hàng; Nghiêm cấm nhân viên tư vấn bán hàng trực tiếp nhận tiền của khách hàng bằng bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, từ ngày 05/12/2020 đến ngày 19/12/2020, Đỗ Thị Th đã lợi dụng vị trí công việc được giao, tiếp xúc, tư vấn và hướng dẫn khách hàng có nhu cầu mua xe ô tô, Thu đưa ra thông tin gian dối, yêu cầu khách hàng nộp tiền cho Thu, Thu làm giả phiếu thu, giả chữ ký của chị Nguyễn Thị Thúy Hằng là kế toán trưởng, ký khống chữ ký Nguyễn Ly dưới mục “Người lập” (thực tế Công ty không có ai tên là Nguyễn Ly) sau đó đưa cho khách hàng để chiếm đoạt của 02 người với tổng số tiền là 1.243.000.000 đồng, cụ thể như sau:

1. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt của ông Phạm Đức Tr số tiền 1.043.000.000 đồng.

Năm 2020 ông Phạm Đức L quen biết Đỗ Thị Th. Tháng 12/2020, ông Phạm Đức Tr (em trai ông L) có nhu cầu mua xe ô tô nên đã nhờ ông L mua giúp 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Honda CRV màu đen, phiên bản L, xe mới 100%. Ông L liên hệ với Đỗ Thị Th để hỏi thông tin về xe ô tô. Th báo giá xe theo hợp đồng, hóa đơn là 1.063.000.000 đồng, chiết khấu 20.000.000 đồng, số tiền phải trả là 1.043.000.000 đồng. Sau đó ông L thông báo lại với ông Tr thì ông Tr đồng ý mua xe như thông tin Thu đưa ra. Do chính sách bán hàng của Công ty Honda ô tô Tây Hồ là chỉ bán cho người có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội nên ông L và ông Tr đã nhờ anh họ là ông Chử Đức Thắng (sinh năm 1970; trú tại đội 13 Chử Xá, xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, Hà Nội) đứng tên ký hợp đồng mua bán xe ô tô, sau đó sẽ làm thủ tục sang tên cho vợ ông Tr là bà Phạm Thị Nguyên (sinh năm 1974; trú tại xóm Ấm, xã Hồng Tiến, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên). Ông L sử dụng mạng Zalo gửi chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của ông Chử Đức Thắng và bà Phạm Thị Nguyên gửi điện thoại di động của Thu để làm hợp đồng mua bán xe và làm thủ tục sang tên. Sau khi đã thỏa thuận mua bán xe và có thông tin cá nhân của ông Chử Đức Thắng, Th báo cáo lại với ông Nguyễn Năng Tuyến, chức vụ: Giám đốc Công ty Honda ô tô Tây Hồ để lập hợp đồng số N00120120103123 ngày 01/12/2020. Nội dung hợp đồng ghi: Bên bán: Công ty Honda ô tô Tây Hồ, bên mua: Chử Đức Thắng; Phương thức thanh toán: Việc thanh toán chỉ được thực hiện khi thanh toán bằng tiền mặt tại phòng kế toán hoặc chuyển khoản vào tài khoản của bên bán được nêu trong hợp đồng này, có chữ ký và dấu tên chức danh của ông Nguyễn Năng Tuyến dưới mục “Đại diện bên bán” và đóng dấu của Công ty Honda ô tô Tây Hồ.

Khoảng 10 giờ ngày 5/12/2020, ông Phạm Đức Tr và ông Phạm Đức L đến Công ty Honda ô tô Tây Hồ để ký hợp đồng, thanh toán tiền và nhận xe ô tô. Đỗ Thị Th gặp ông Tr, ông L tại sảnh tiếp khách của Công ty, Th nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền nên Th yêu cầu ông Tr nộp tiền mua xe cho Th. Ông Tr tin tưởng nên đã đưa cho Th số tiền 943.000.000 đồng. Nhận tiền xong Th nói dối do chưa đủ giấy tờ xuất xưởng nên hẹn ông Tr 01 tuần sau đến lấy xe ô tô. Ông Tr yêu cầu Th đưa phiếu thu tiền thì Th lên phòng kế toán tầng 2 của Công ty Honda ô tô Tây Hồ in mẫu phiếu thu tiền đề ngày 05/12/2020 từ máy tính để bàn tại phòng kinh doanh. Nội dung ghi: Người nộp tiền Chử Đức Thắng, lý do nộp: Mua xe Hoada CRV - L màu đen, số tiền nộp 943.000.000 đồng. Th ký giả chữ ký của chị Nguyễn Thị Thúy Hằng dưới mục “Kế toán trưởng; ký khống chữ kỹ, chữ viết Nguyễn Ly dưới mục “Người lập”, sau đó Th lấy dấu “ĐÃ THU TIỀN” và dấu hình vuông tên Công ty ở quầy kế toán thu ngân đóng trên phiếu thu rồi đưa cho ông Tr kèm theo 01 hợp đồng bán hàng số N00120120103123 ngày 01/12/2020. Ngày 07/12/2020, ông Tr chuyển khoản số tiền 100.000.000 đồng đến tài khoản số 0451001951812 là tài khoản cá nhân của Th mở tại ngân hàng Vietcombank. Sau khi nhận của ông Tr tổng số tiền là 1.043.000.000 đồng nhưng Th không nộp vào kế toán của Công ty Honada ô tô Tây Hồ mà sử dụng chi tiêu cá nhân.

Ngày 20/12/2020, ông Tr không nhận được xe như cam kết nên ông Tr, ông L, ông Thắng và bà Phạm Thị Nguyên đến Công ty Honda ô tô Tây Hồ thì được biết Đỗ Thị Th không nộp khoản tiền nào cho Công ty nên không lấy được xe. Ông Tr đã đưa Th đến công an phường Yên Phụ trình báo. Tại công an phường Yên Phụ, ông Tr đã nhờ Văn phòng Thừa phát lại Sao Đỏ, địa chỉ: số 379 đường Lương Thế Vinh, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội lập vi bằng, Th xác nhận: Do vướng mắc về thủ tục nên chưa bàn giao xe được, Th cam kết chậm nhất ngày 27/12/2020 sẽ giao xe cho ông Tr.

Ngày 22/12/2020, ông Tr, ông L và ông Thắng đến Công ty Honda ô tô Tây Hồ gặp ông Nguyễn Năng Tuyến - Giám đốc đại lý, được ông Tuyến thông báo Đỗ Thị Th đã bị tạm đình chỉ công tác, phiếu thu tiền không phải do Công ty phát hành, Th không nộp tiền vào Công ty. Vì vậy, ông Tr nhiều lần yêu cầu Th trả tiền. Đến tháng 01/2021, Th trả lại cho ông Tr số tiền 105.000.000 đồng, hiện còn chiếm đoạt của ông Tr số tiền là 938.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: Đỗ Thị Th giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, số IMEI: 357270093720728; Ông Phạm Đức Tr giao nộp 01 phiếu thu đề ngày 05/12/2020 ký hiệu A1. Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết trên tài liệu thu giữ do ông Tr giao nộp. Tại bản kết luận giám định số 2425/KLGĐ-PC09- Đ3, ngày 30/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hà Nội kết luận:

- Chữ ký dưới mục “Kế toán trưởng” trên mẫu cần giám định (ký hiệu A1) với chữ ký đứng tên Nguyễn Thị Thúy Hằng trên mẫu so sánh (ký hiệu M1) là chữ không phải do cùng một người ký ra.

- Chữ ký, chữ viết dưới các mục “Kế toán trưởng”, “Người lập” trên mẫu cần giám định ký hiệu A1 với chữ ký, chữ viết đứng tên Đỗ Thị Th trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M2 đến M4 là chữ do cùng một người ký và viết ra.

Kiểm tra điện thoại di động của Đỗ Thị Th xác định có nhiều hình ảnh, tin nhắn liên quan đến việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông Phạm Đức Tr.

2. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt của ông Thiều Anh H (sinh năm 1980; trú tại P2513, tòa 27A1, chung cư Green Star, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) số tiền 200.000.000 đồng.

Do có quen biết từ trước nên ngày 11/12/2020, ông Thiều Anh H gọi điện thoại cho Đỗ Thị Th để nhờ Thu tư vấn mua xe ô tô Honda CRV-L, Thu hẹn ông H đến Honda ô tô Tây Hồ để làm thủ tục mua xe. Ngày 12/12/2020, ông H đến Honda ô tô Tây Hồ, Th tư vấn và báo giá xe Honda CRV-L là 1.118.000.000 đồng, khuyến mại giảm 85.000.000 đồng trừ trực tiếp vào giá tiền của xe, giảm 06% thuế trước bạ và khuyến mại 50.000.000 đồng tiền lắp các phụ kiện tại đại lý. Do không có đủ tiền mua xe nên ông H đề nghị mua xe với hình thức trả góp. Th giới thiệu cho ông H gặp ông Hoàng Xuân Phương Anh là Giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Nam Á - chi nhánh Yên Phụ để được tư vấn mua xe ô tô trả góp. Ông Hoàng Xuân Phương Anh tạm tính số tiền Ngân hàng có thể cho ông H vay trả góp để mua xe ô tô là 899.000.000 đồng (sau khi hoàn thiện hồ sơ vay vốn, Ngân hàng sẽ thông báo cụ thể số tiền cho vay). Ông H đồng ý và gửi cho ông Phương Anh các giấy tờ liên quan đến thông tin cá nhân của ông H. Thu yêu cầu ông H chuẩn bị số tiền 235.000.000 đồng là tiền đối ứng để làm thủ tục mua xe ô tô trả góp, tiền thuế, lệ phí trước bạ, đăng kiểm và tiền bảo hiểm thân vỏ đổng thời Thu cung cấp số tài khoản để ông H chuyển khoản để đặt cọc làm hợp đồng mua xe. Ngày 12/12/2020 ông H chuyển khoản trước số tiền 20.000.000 đồng đến số tài khoản 0110000006668 là tài khoản của Công ty Honda ô tô Tây Hồ mở tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Nam Á.

Ngày 19/12/2020, Đỗ Thị Th gọi điện thoại cho ông H yêu cầu nộp số tiền 215.000.000 đồng để Th hoàn thiện thủ tục mua xe trả góp đồng thời Th cung cấp tài khoản số 0451001951812 là tài khoản cá nhân của Th mở tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Th cam kết sẽ giao xe cho ông H trong khoảng đầu tháng 01/2021 và chuyển hợp đồng mua bán xe, phiếu thu tiền đến nhà ông H. Tin tưởng nên ngày 19/12/2020 ông H đã chuyển khoản số tiền 200.000.000 đồng vào tài khoản số 0451001951812 của Th. Số tiền còn lại 15.000.000 đồng Th và ông H thống nhất khi nào bàn giao xe sẽ thanh toán sau.

Ngày 24/12/2020, nhân viên của Công ty Honda ôtô Tây Hồ gọi điện thoại thông báo ông H đến để làm hợp đồng mua bán xe. Ngày 25/12/2020, ông H đến Công ty Honda ôtô Tây Hồ thì được biết số tiền 200.000.000 đồng ông H chuyển vào tài khoản của Th nhưng Th không nộp vào Công ty Honda ôtô Tây Hồ mà sử dụng vào mục đích cá nhân nên Công ty Honda ô tô Tây Hồ không ký hợp đồng bán xe ô tô cho ông H. Do không ký hợp đồng mua bán xe ô tô nên ông Hoàng Xuân Phương Anh không triển khai gói hỗ trợ vay trả góp mua xe ô tô cho ông Thiều Anh H. Ngày 11/01/2021 Công ty Honda ô tô Tây Hồ đã trả lại cho ông H số tiền 20.000.000 đồng. Sau nhiều lần ông H yêu cầu trả lại tiền nhưng Th không trả, ngày 31/12/2020 Đỗ Thị Th viết Giấy cam kết hẹn đến ngày 15/01/2021 sẽ trả lại tiền cho ông Thiều Anh H, nhưng quá hạn Th không trả lại mà sử dụng để chi tiêu cá nhân.

Vật chứng thu giữ: Ông Thiều Anh H giao nộp 01 “Bản cam kết” đứng tên Đỗ Thị Th, đề ngày 31/12/2020 ký hiệu A. Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết trên tài liệu thu giữ do ông H giao nộp. Tại bản kết luận giám định số 6387/KLGĐ-PC09-Đ3, ngày 23/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Chữ viết, chữ ký đứng tên Đỗ Thị Th trên mẫu cần giám định ký hiệu A với chữ viết, chữ ký đứng tên Đỗ Thị Th trên các mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 là chữ do cùng một người viết và ký ra.

Ngày 23/02/2021, Đỗ Thị Th đến Cơ quan Cơ quan Cảnh sát - Công an quận Tây Hồ đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của bản thân. Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Thị Th khai số tiền 1.243.000.000 đồng chiếm đoạt của ông Phạm Đức Tr và ông Thiều Anh H, Thu sử dụng một phần vào mục đích cá nhân và một phần nộp vào Công ty để trả tiền mua xe cho các khách hàng trước, đến nay Thu không có khả năng khắc phục trả lại tiền cho ông Phạm Đức Tr và ông Thiều Anh H.

Xác minh tại Công ty TNHH Morto N.A Việt Nam xác định: Công ty đã có quy định “Khách hàng phải trực tiếp nộp tiền đặt cọc, tiền mua xe tại phòng kế toán hoặc chuyển khoản qua ngân hàng. Khách hàng tuyệt đối không được nộp tiền mua xe cho nhân viên tư vấn bán hàng. Công ty không chịu trách nhiệm nếu khách hàng trực tiếp nộp tiền cho nhân viên tư vấn bán hàng. Khách hàng và nhân viên tư vấn bán hàng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm nếu khách hàng thực hiện việc nộp tiền trực tiếp cho nhân viên tư vấn bán hàng”. Quy định này cũng được ghi rõ trong hợp đồng mua bán xe, trên Website của Công ty, tại mỗi bàn đàm phán giao dịch với khách hàng trong Showroom của Công ty. Việc Đỗ Thị Th nhận tiền mua xe ô tô của ông Phạm Đức Tr và ông Thiều Anh H, Thu không nộp tiền vào bộ phận kế toán của Công ty; Phiếu chi đề ngày 05/12/2020 không phải do Công ty phát hành, Công ty không có nhân viên nào tên là Nguyễn Ly; Chữ ký dưới mục “Kế toán trưởng” trên phiếu chi đề ngày 05/12/2020 không phải cho chị Nguyễn Thị Thúy Hằng ký ra. Do có nhiều vi phạm về quy trình bán hàng nên ngày 21/12/2020, Công ty ô tô Honda Tây Hồ tạm đình chỉ công tác và đến ngày 08/01/2021 Công ty quyết định sa thải đối với Đỗ Thị Th.

Quá trình giải quyết vụ án, ngày 07/4/2021 Cơ quan điều tra còn nhận được đơn của chị Nguyễn Thị Châu (sinh năm 1985; trú tại số 35 ngõ 317 Hoàng Hoa Thám, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, Hà Nội) tố cáo Đỗ Thị Th có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, kết quả điều tra đã xác định: Đỗ Thị Th và anh Nguyễn Viết Hùng (sinh năm 1982 - chồng chị Châu) là bạn học cùng với nhau. Ngày 28/12/2020, Thu gọi điện thoại, nhắn tin hỏi vay của anh Hùng số tiền 100.000.000 đồng để Thu trả viện phí cho con trai của Thu thì anh Hùng và chị Châu đồng ý. Cùng ngày 28/12/2020, chị Châu đã chuyển khoản số tiền 100.000.000 đồng vào tài khoản số 0451001951812 của Thu để cho Thu vay. Thu hẹn chậm nhất đến ngày 13/3/2021 sẽ trả cho vợ chồng chị Châu. Quá hạn, đến nay Đỗ Thị Th chưa trả số tiền trên cho vợ chồng chị Châu nên chị Nguyễn Thị Châu có đơn tố giác Đỗ Thị Th có hành vi chiếm đoạt tài sản, đây là tranh chấp dân sự nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý trong vụ án này.

Cáo trạng số: 505/CT-VKS-P3 ngày 25/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Đỗ Thị Th về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điểm a Khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra.

Bị hại đề nghị bị cáo trả lại tiền và xử lý bị cáo Thu theo quy định của Pháp luật. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm a Khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 và 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tội danh: Bị cáo Đỗ Thị Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Hình phạt: Phạt bị cáo Đỗ Thị Th từ 12 năm đến 13 năm tù.

Về dân sự: Đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo ý kiến: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đã bồi thường khắc phục thiệt hại dân sự một phần cho bị hại, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn con bị bệnh não phải có người chăm sóc, bị cáo bó bố được tạng Huân chương kháng chiến. Nguyên nhân bị cáo phạm tội là do con bị cáo bị điện giật dẫn đến bại não tiền chữa bệnh tốn kém, bị cáo không có tiền lên lấy tiền của khách hàng sau trả cho khoản đã tiêu của khách hàng trước dẫn đến không có khả năng trả nợ, người bị hại có đơn xin giảm hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin lỗi bị hại, đề nghị hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về với gia đình chăm sóc con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành Phố Hà Nội,Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội, của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa có mặt bị hại ông Phạm Đức Trọng, vắng mặt ông Thiều Anh H có đơn xin vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt.

[2].Về nội dung:

[2.1] Về tội danh và hình phạt áp dụng với các bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Đỗ Thị Th là nhân viên tư vấn bán hàng của Công ty TNHH Motor N.A Việt Nam - Honda ô tô Tây Hồ, mặc dù Công ty đã quy định nghiêm cấm nhân viên tư vấn bán hàng thu tiền của khách hàng, nhưng do cần tiền chi tiêu vào mục đích cá nhân, nên ngày 05/12/2020 và ngày 07/12/2020, Đỗ Thị Th đưa ra thông tin gian dối, lập khống phiếu thu, giả chữ ký của kế toán trưởng Công ty, ký khống chữ ký dưới mục “Người lập” trực tiếp thu ông Phạm Đức Tr tổng số tiền 1.043.000.000 đồng; Ngày 19/12/2020, Đỗ Thị Th yêu cầu ông Thiều Anh H nộp tiền để làm thủ tục mua xe ô tô trả góp, tiền thuế, lệ phí trước bạ, đăng kiểm và tiền bảo hiểm thân vỏ. Do tin tưởng nên ngày 19/12/2020 ông H đã chuyển khoản số tiền 200.000.000 đồng vào tài khoản của Thu. Sau khi chiếm đoạt tiền của ông Phạm Đức Tr và ông Thiều Anh H tổng số tiền là 1.243.000.000 đồng, Đỗ Thị Th không đưa vào hệ thống sổ sách, kế toán của Công ty, không nộp tiền vào Công ty ô tô Honda Tây Hồ mà sử dụng chi tiêu cá nhân. Sau khi phát hiện Đỗ Thị Th có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ông Phạm Đức Tr yêu cầu trả lại tiền thì Th đã trả lại ông Tr số tiền 105.000.000 đồng, số tiền còn chiếm đoạt của Trọng là 938.000.000 đồng. Hiện các bị hại đề nghị xử lý Đỗ Thị Th theo quy định của pháp luật và bồi thường cho họ số tiền còn chiếm đoạt.

Hành vi của bị cáo Đỗ Thị Th là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự xã hội.

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

Bị cáo chiếm đoạt số tiền là 1.243.000.000 đồng, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội : “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân Thành Phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội " Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Đỗ Thị Th 02 lần thực hiện hành vi phạm tội, mỗi lần đều đủ định lượng truy tố, mục đích chiếm đoạt tiền chi tiêu cá nhân nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “ Phạm tội từ 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã khắc phục một phần thiệt hại dân sự, gia đình có người thân thích được tặng Huân huy chương kháng chiến, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn con bị bệnh não, nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự nên được áp dụng điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Bị cáo chiếm đoạt tài sản đã được khắc phục bồi thường dân sự một phần cho bị hại, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nên áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS cho bị cáo hưởng mức án dưới khung hình phạt.

Vì vậy chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành Phố Hà Nội truy tố bị cáo Đỗ Thị Th theo tội danh khung hình phạt quy định tại Điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 như đề nghị trong bản luận tội là có căn cứ đúng pháp luật.

[2.2] Về trách nhiệm dân sự:

Toàn bộ số tiền đặt mua xe là tiền của ông Tr, trong đó ông Tr nhờ anh trai là ông Phạm Đức L chuyển khoản 100.000.000đ từ tài khoản ông L vào tài khoản của bị cáo Thu, tại phiên Tòa ông L xác nhận số tiền đó của ông Tr và đề nghị trả cho ông Tr được chấp nhận.

Bị cáo đã chiếm đoạt của ông Phạm Đức Tr số tiền 1.043.000.000 đ đã trả lại 105.000.000đ còn phải bồi thường trả lại cho ông Tr 938.000.000đ. Bị cáo chiếm đoạt của ông Thiều Anh H số tiền 200.000.000đ chưa bồi thường trả lại nên có nghĩa vụ trả lại ông H 200.000.000đ.

[2.3] Các vấn đề khác:

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động dùng để liên lạc với các bị hại đây là phương tiện phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Việc xử lý vật chứng theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về án phí: Bị cáo tuyên có tội và phải bồi thường dân sự nên phải chiụ án phí theo qui định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Ng hị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 về án phí lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ: Điểm a Khoản 4 Điều 174; Điểm b, s Khoản 1 và 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2].Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Thị Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Phạt: Bị cáo Đỗ Thị Th 11 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/02/2021.

[3] Về dân sự: Buộc bị cáo trả cho ông Phạm Đức Tr số tiền 938.000.000 đồng và trả cho ông Thiều Anh H số tiền 200.000.000đ Kể từ ngày người bị hại, có đơn yêu cầu thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[4] Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, số IMEI: 357270093720728 (Vật chứng chi tiết vật chứng được chuyển cho Cục thi hành án dân sự theo Quyết định chuyển vật chứng số 391 ngày 26/11/2021.)

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 56.900.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự người phải thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án quy định tại điều 6,7,9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về