Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 29/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 29/2021/HSST NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 20 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2021/HSST ngày 14 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Dương Đình Q, sinh năm 1977; Nơi cư trú: thôn H, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Đình N và bà Lê Thị T; có vợ là Trần Thị Thanh H vµ 03 con, lớn sinh năm 2002 nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/01/2021 đến ngày 05/02/2021 được tại ngoại. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 31/2021/LCĐKNCT-TA ngày 14/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Đinh Văn Th, sinh năm 1986; Địa chỉ: thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam, có đơn xin xử vắng mặt.

+ Anh Lê Đăng H, sinh năm 1996; Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.

+ Chị Lường Thị N, sinh năm 1988; Địa chỉ: thôn H, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam, có đơn xin xử vắng mặt.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

ơng Đình Q là lái xe taxi, thông qua mạng xã hội Q biết người sử dụng tài khoản Zalo có tên “Danh Thành” làm giả được giấy phép lái xe mô tô. Với mục đích vụ lợi, Q kết nối với tài khoản Zalo “Danh Thành” nhờ làm giả giấy phép lái xe mô tô cho người có nhu cầu để hưởng tiền chênh lệch. Theo thỏa thuận giữa Q và tài khoản Zalo “Danh Thành” thì chi phí để làm giả mỗi giấy phép lái xe mô t ô Q phải thanh toán 1.500.000đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng). Ngoài ra, Q có trách nhiệm chụp ảnh chứng minh nhân dân bản phô tô, ảnh (3x4)cm của người có nhu cầu gửi vào tài khoản Zalo “Danh Thành”. Khi nào làm xong, Zalo “Danh Thành” sẽ chuyển phát nhanh cho Q và Q thanh toán tiền trực tiếp cho người chuyển phát nhanh.

Ngày 15/01/2021, chị Lường Thị N, sinh năm 1988 trú tại thôn H, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam (là hàng xóm của Q) đến nhà Q sửa xe, mua đồ, qua nói chuyện biết chị N chưa có giấy phép lái xe. Thấy vậy Q nói với chị N làm được giấy phép lái xe mô tô nhanh, chị N đồng ý nhờ Q làm. Q nhận của chị N 01 chứng minh nhân dân phô tô và ảnh (3x4), còn tiền đưa sau.

Ngày 20/01/2021, Q chở khách là anh Đinh Văn Th, sinh năm 1986, trú tại thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam ra thành phố Phủ Lý. Qua nghe anh Thành nói chuyện điện thoại, Q biết anh Thành đang có nhu cầu làm giấy phép lái xe để đi trong dịp tết Nguyên đán. Q nói với anh Thành việc Q có khả năng làm giấy phép lái xe nhanh với giá 1.800.000đồng, thấy vậy anh Thành nhờ Q làm giấy phép lái xe mô tô, Q yêu cầu anh Thành đưa chứng minh nhân dân phô tô cùng ảnh (3x4) để làm hồ sơ. Tin lời Q, anh Thành đã rủ bạn là anh Lê Đăng H, sinh năm 1996 trú tại thôn T, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam cùng làm. Anh Thành đã đưa 2 chứng minh nhân dân, 2 ảnh (3x4) của Thành và Hiếu cùng 2.000.000đ cho Q, thống nhất khi nào có giấy phép lái xe sẽ thanh toán nốt số tiền còn lại. Sau khi tìm được 3 người có nhu cầu làm giấy phép lái xe, ngày 21/01/2021 Q chụp ảnh chứng minh nhân dân và ảnh của Thành, Hiếu, Nghiên rồi sử dụng tài khoản Zalo tên “Dương Q” gửi cho tài khoản có tên “Danh Thành”.

Ngày 26/01/2021, Q đã nhận được 03 giấy phép lái xe của anh Th, anh H, chị N và 01 tờ giấy A4 có nội dung ghi “Biên bản tổng hợp kết quả sát hạch lái xe mô tô” mang tên Lường Thị N thông qua chuyển phát nhanh và Q đã thanh toán số tiền 4.500.000đ cho người chuyển phát nhanh. Cùng ngày, Q đã đưa giấy phép lái xe và hồ sơ cho chị N, chị N thắc mắc sao chưa thi mà đã có bằng, thì Q nói đây là bằng thật, rồi dùng điện thoại di động vào phần mềm zalo, quét mã QR cho Nghiên xem thì thấy hiện lên tên, tuổi, địa chỉ chính xác của chị N nên chị N trả cho Q 1.700.000đ. Do vẫn nghi ngờ là giấy phép lái xe mô tô giả, ngày 28/01/2021 chị N đến trình báo và giao nộp cho Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Hà Nam đề nghị xác minh làm rõ.

Ngày 30/01/2021, Q liên hệ với anh Th thông báo đã có giấy phép lái xe. Do anh Th có việc bận nên đã nhờ anh H đến nhà Q để nhận giấy phép lái xe. Khoảng 19 giờ cùng ngày, anh H đến nhà Q thì Q đưa cho anh H 02 giấy phép lái xe mang tên Th và Hiếu. Lúc này anh H hỏi Q “Sao không thi sát hạch mà có giấy phép lái xe thì là giả à” và không thanh toán số tiền còn lại cho Q. Hai bên đã to tiếng đôi co với nhau thì bị lực lượng công an đến lập biên bản kiểm tra phát hiện, thu giữ 02 giấy phép lái xe mang tên Đinh Văn Th, Lê Đăng H (được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1) và số tiền 5.000.000đ.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Dương Đình Q thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime có số IMEI 1: 355726097640933; IMEI 2:

355727097640931 đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số 03/PC09-TL ngày 04/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “02 Giấy phép lái xe gửi giám định ký hiệu A1, A2 là giả”.

Tại bản Kết luận giám định số 09/PC09-TL ngày 31/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Giấy phép lái xe số 350206012631 gửi giám định (ký hiệu A1) là giả. Con dấu đóng ra hình dấu tròn có nội dung “SỞ GIAO THÔNG VẬN TẢI” trên tài liệu mẫu (ký hiệu M1) không đóng ra hình dấu tròn có cùng nội dung trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A2)”.

Khai thác dữ liệu điện tử trên điện thoại di động của Dương Đình Q đã thu giữ khi khám xét khẩn cấp ở mục Zalo có nhiều nội dung tin nhắn giữa tài khoản zalo “Dương Q” và tài khoản Zalo “Danh Thành” liên quan đến việc làm giả tài liệu, phù hợp với lời khai của Q.

Tại bản Cáo trạng số 23/CT-VKS-P2 ngày 13/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam đã truy tố Dương Đình Q về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 341; Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Dương Đình Q từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 tháng đến 60 tháng. Đề nghị áp dụng Điều 47; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại đã thu giữ; trả lại bị cáo Q số tiền 5.000.000đ đã thu giữ không liên quan đến tội phạm. Phạt bổ sung bị cáo Q số tiền 5.000.000đ sung quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Nam, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Dương Đình Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại Cơ quan điều tra, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở khẳng định: Vì mục đích vụ lợi, Dương Đình Q đã nhận làm giả giấy phép lái xe mô tô cho anh Đinh Văn Th, anh Lê Đăng H với giá 1.800.000đồng/1 giấy phép và chị Lường Thị N với giá là 1.700.000đồng/1 giấy phép. Ngày 21/01/2021, Q chụp ảnh chứng minh nhân dân, ảnh (3x4) của anh Đinh Văn Th, anh Lê Đăng H và chị Lường Thị N rồi gửi cho tài khoản Zalo “Danh Thành” để làm giả giấy phép lái xe mô tô. Ngày 26/01/2021, Q nhận được 3 giấy phép lái xe mô tô và 01 tờ giấy A4 có nội dung ghi “Biên bản tổng hợp kết quả sát hạch lái xe mô tô” giả và đã nhận được 3.700.000đ của anh Th, anh H, chị N. Hành vi của bị cáo Dương Đình Q đã phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự và đời sống xã hội tại địa phương nên cần xét xử bị cáo thật nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Dương Đình Q không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo có bố đẻ là ông Dương Thanh Như (tức Dương Đình Như) là người có công cách mạng được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt:

Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, xâm phạm đến quy trình, tính đến đúng đắn trong hồ sơ, thủ tục khi tham gia các quan hệ xã hội. Do vậy cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội. Bị cáo Dương Đình Q phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có bố đẻ là người có công với cách mạng, bị cáo là lao động chính trong gia đình, có nơi cư trú rõ ràng, giấy phép lái xe giả của chị N, anh Th, anh H chưa sử dụng, chưa gây hậu quả nghiêm trọng nên không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà chỉ cần xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, phù hợp với Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo phạm tội vì mục đích vụ lợi nên cần phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Q nhằm răn đe và phòng ngừa chung theo quy định tại khoản 4 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự ; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Prime đã qua sử dụng thu giữ của Dương Đình Q.

Trả lại bị cáo Dương Đình Q số tiền 5.000.000đ đã thu giữ, không liên quan đến hành vị phạm tội nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng và ủy nhiệm chi số 22 ngày 28/5/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Nam).

Đi với 03 giấy phép lái xe mô tô giả mang tên Lường Thị N, Đinh Văn Th và Lê Đăng H tiếp tục lưu trữ trong hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật.

[6] Các vấn đề khác:

Đi với chị Lường Thị N nhờ Dương Đình Q làm giấy phép lái xe mô tô với ý thức làm thủ tục nhanh để đi thi lấy bằng. Sau khi nhận được giấy phép lái xe mô tô và nghi ngờ là giấy phép lái xe giả nên không sử dụng mà đến cơ quan điều tra trình báo về hành vi vi phạm pháp luật của Q. Do vậy cơ quan điều tra không xử lý đối với chị N là phù hợp quy định của pháp luật. Quá trình điều tra bị cáo Q đã trả lại chị N số tiền 1.700.000đ đã nhận, đến nay chị N không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với anh Đinh Văn Th và anh Lê Đăng H nhận thức được việc khi làm giấy phép lái xe mô tô thì phải làm hồ sơ thi sát hạch nên có nhờ Q làm hồ sơ để nhanh được đi thi. Do vậy khi biết Q làm giả giấy phép lái xe mô tô cho mình thì đã không nhận và không thanh toán tiền cho Q và Q đã trả lại anh Th, anh H số tiền 2.000.000đ đã nhận. Do vậy cơ quan điều tra không xử lý đối với Đinh Văn Th và Lê Đăng H là phù hợp quy định của pháp luật.

Về tài khoản Zalo tên “Danh Thành”, quá trình điều tra chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ, số điện thoại cụ thể để xử lý trong vụ án này. Viện kiểm sát đã yêu cầu cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

Bị cáo Dương Đình Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47; Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 135; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý án phí, lệ phí Tòa án:

1. Về tội danh: Tuyên bố Dương Đình Q phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” 2. Về hình phạt chính: Xử phạt Dương Đình Q 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 20/8/2021.

Giao bị cáo Dương Đình Q cho UBND xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện thủ tục theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Hu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách: “Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

3. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 4 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Pht bổ sung bị cáo Dương Đình Q 5.000.000đ sung quỹ Nhà nước.

4. Về xử lý vật chứng và tài sản:

Tch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Prime đã qua sử dụng thu giữ của Dương Đình Q.

Trả lại bị cáo Dương Đình Q số tiền 5.000.000đ đã thu giữ, không liên quan đến hành vị phạm tội những giữ lại để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng đặc điểm vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/5/2021 và Ủy nhiệm chi chuyển khoản số 22 lập ngày 28/5/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Nam).

Tiếp tục lưu giữ 03 giấy phép lái xe mô tô giả mang tên Lường Thị N, Đinh Văn Th và Lê Đăng H trong hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật.

5. Về án phí: Bị cáo Dương Đình Q phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, có quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai báo cho các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

551
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 29/2021/HSST

Số hiệu:29/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về