Bản án về tội làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ GIẤY TỜ, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2022/TLST-HS ngày 04/01/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyn Thị T, sinh ngày 04/3/1985, tại Hải Phòng; ĐKHKTT tại: Thôn 3, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn Q, xã N, huyện A, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị M (đều đã chết); có chồng là Nguyễn Trọng T và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2005; tiền án; tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 10/9/2021, tạm giam ngày 17/9/2021 tại Trại tạm giam Công an Hải Phòng, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đỗ Trung H, địa chỉ: 148 C, tổ K 6, phường N, quận K, Hải Phòng, vắng mặt

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Trọng T, anh Hoàng T Anh, đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 ngày 10/9/2021, tại trước cửa số nhà 952 đường Nguyễn Lương Bằng, quận K, Hải Phòng, Công an quận K phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Thị T đi xe môtô mang BKS 16N5 - 8797 đang bán 02 Giấy khám sức khỏe của Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng (đã được dán ảnh, ghi thông tin, đóng dấu chức danh của các bác sĩ và dấu tròn của Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng) cho anh Đỗ Trung H với giá 400.000 đồng. Quá trình bắt giữ đã thu của Nguyễn Thị T 03 Giấy khám sức khỏe của Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng (đã dán ảnh, ghi thông tin và đóng dấu sẵn); 03 điện thoại di động và 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Thị T khai nhận: Do hiện nay nhiều người cần giấy khám sức khỏe để nộp hồ sơ xin việc làm nhưng họ ngại tới các cơ sở y tế để khám sức khỏe, họ thường lên mạng xã hội như facebook, zalo để tìm kiếm mua giấy khám sức khỏe lấy ngay; nên T đã tìm cách làm giấy khám sức khỏe. Khoảng đầu tháng 8/2021, T đã sử dụng điện thoại lên mạng xã hội facebook tìm kiếm các bài viết liên quan đến dịch vụ làm dấu. Quá trình tìm kiếm T có tìm được một số điện thoại trong một bài viết trên face book (T không nhớ bài viết và số điện thoại đó). Sau đó T sử dụng tài khoản zalo (đăng ký bằng số điện thoại 0982137721) để kết bạn với số điện thoại đó. Sau khi kết bạn thành công, T có nhắn tin vào tài khoản zalo của số điện thoại đó (T không nhớ tên tài khoản) hỏi đặt mua một bộ dấu gồm 01 dấu tròn của Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng và một số dấu tên bác sĩ. Người bán có gửi cho T một số mẫu giấy khám sức khỏe để tham khảo, trên mẫu giấy đã điền sẵn các nội dung thông tin sức khỏe, ký tên, đóng dấu của Bệnh viện, các bác sĩ. Sau khi so sánh thấy được nên T đã đặt một bộ dấu với giá 1.500.000 đồng gồm 01 dấu tròn màu đỏ “Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng” và các dấu màu xanh tên của các bác sĩ “BS Phạm Văn Nam, BS Trần Văn An, BS Nguyễn Thị Cúc, BS Nguyễn Thị Yến, BS Nguyễn Thị Nhung, BS Hoàng T Anh, BS Hoàng Thị Tn”, 01 dấu chức danh “Trưởng phòng chăm sóc sức khỏe cộng đồng BSCKI Lê Thị Thanh”. Ngoài ra người này còn bán cho T khoảng 10 tờ phôi giấy khám sức khỏe của Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng (có tờ ghi các thông tin sức khỏe, đóng dấu tròn của Bệnh viện, ký tên, đóng dấu của các các sĩ; có tờ để trống các thông tin sức khỏe, không đóng dấu, ký tên) với giá 500.000 đồng. Sau khi có đầy đủ dấu và phôi giấy khám sức khỏe, T đã làm sẵn một vài tờ giấy khám sức khỏe giả và sử dụng tài khoản mạng xã hội có tên “Nguyễn Duy Anh” để đăng các bài viết vào các nhóm, trang tuyển dụng công nhân của các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Khi có người mua giấy khám sức khỏe nhắn tin hoặc gọi điện vào số điện thoại 0982.137721, T yêu cầu người mua gửi ảnh chân dung và ảnh chụp Chứng minh nhân hoặc Căn cước công dân để lấy thông tin người mua. Sau đó quá trình thao tác làm giấy khám sức khỏe giả như sau:

Tại trang thứ nhất thể hiện thông tin cá nhân và tiền sử bệnh của đối tượng khám sức khỏe; góc trên bên trái có ô dán ảnh 4x6 thì T để khi nào lấy thông tin của người khám sẽ ghi vào. Tại trang 2 và trang 3 gồm chỉ số khám chiều cao, cân nặng, mạch, huyết áp, nội dung khám lâm sàng, khám cận lâm sàng và kết luận, T tự ghi kết quả nội dung khám với các chỉ số bình thường và ký tên, đóng dấu bác sĩ tương ứng từng nội dung khám đồng thời đóng dấu kết luận đủ sức khỏe học tập và công tác rồi T ký vào bên dưới “NGƯỜI KẾT LUẬN”.

Ngày 10/9/2021, T cầm theo 03 giấy khám sức khỏe giả đã dán ảnh, ghi đầy đủ thông tin người mua và các thông tin liên quan đến sức khỏe, đóng dấu tròn đỏ của Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng, ký và đóng dấu tên các bác sĩ. T chỉ nhớ tên những người viết trên giấy là Trịnh Minh Tú, Vũ Thị Hiền (cả hai có địa chỉ tại K, Hải Phòng), Vy Thị Hồng Trang (địa chỉ giao giấy tại cầu Trạm Bạc), ngoài ra T không nhớ các thông tin khác. T để 02 giấy khám sức khỏe của Trịnh Minh Tú và Vũ Thị Hiền vào chung một phong bì màu trắng, còn giấy khám sức khỏe của Trang, để vào một phong bì màu trắng khác (bên ngoài có ghi tên Trang và ghi số điện thoại 0349428724). Trong khi đang giao giấy tờ cho người mua tại địa chỉ đã hẹn thì T bị Công an quận K bắt quả tang như đã nêu trên.

Anh Đỗ Trung H khai: Do anh Hà đang có nhu cầu xin việc làm nên cần làm giấy khám sức khỏe nhanh tại bệnh viện. Anh Hà có sử dụng điện thoại lên mạng xã hội facebook tìm một số bài viết liên quan đến dịch vụ khám sức khỏe tại bệnh viện. Anh Hà có tìm được một bài viết trên một tài khoản facebook có tên “Nguyễn Duy Anh” giới thiệu làm nhanh giấy khám sức khỏe lấy ngay không cần đến khám, yêu cầu đơn giản chỉ cần gửi ảnh chân dung, thông tin cá nhân. Giá một tờ giấy khám sức khỏe là 200.000 đồng, khi cần liên hệ số điện thoại 0982.137721. Khoảng 09h30 ngày 10/09/2021, có một người phụ nữ đi xe môtô biển số 16N5- 8797 đến số 952 Nguyễn Lương Bằng, K, Hải Phòng để giao 02 giấy khám sức khỏe, khi hai bên đang giao dịch mua bán 02 giấy khám sức khỏe thì bị Công an quận K bắt quả tang. Tại Cơ quan Công an, anh Hà được biết người phụ nữ đó tên là Nguyễn Thị T (sinh năm 1985, hộ khẩu thường trú ở B, A, Hải Phòng).

Sau khi Nguyễn Thị T bị bắt, Nguyễn Trọng T, là chồng của Nguyễn Thị T cùng Hoàng T Anh, là con trai của Nguyễn Thị T đã đến Cơ quan điều tra giao nộp các đồ vật sau: 01 túi nilon đen bên trong có 05 tờ Giấy khám sức khỏe (khổ A3) photo của “Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng” chưa dán ảnh, đã ghi đầy đủ thông tin khám; 07 dấu vuông chức danh màu xanh, lần lượt ghi nội dung: “BS Trần Văn An”, “BS Hoàng T Anh”, “BS Phạm Văn Nam”, “BS Nguyễn Thị Nhung”, “BS Hoàng Thị Tn”, “BS Nguyễn Thị Yến”, “BS Nguyễn Thị Cúc”; 01 dấu tròn có nội dung “Bệnh viện Đa khoa quốc tế Hải Phòng”; 01 dấu chức danh có nội dung “Trưởng phòng chăm sóc sức khỏe cộng đồng BSCKI. Lê Thị Thanh”); 01 case máy tính màu đen nhãn hiệu Omega; 01 máy in HP 127WF màu đen. Nguyễn Thị T đã thừa nhận các đồ vật, tài liệu do Hoàng T Anh giao nộp là đồ vật, tài liệu T đã đưa cho T Anh trước đó.

Tại bản Kết luận giám định số 150/KLGĐ – PC09 ngày 12/09/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận:

Hình dấu tròn có nội dung “Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng” trên các tài liệu cần giám định với hình dấu tròn có cùng nội dung trên các mẫu so sánh không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu tròn có nội dung “Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng” trên tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn có cùng nội dung được đóng ra từ con dấu tròn màu đỏ thu giữ của Nguyễn Thị T là do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu chức danh có nội dung “Trưởng phòng chăm sóc sức khỏe cộng đồng BSCKI. Lê Thị Thanh” trên các tài liệu cần giám định so với hình dấu chức danh có cùng nội dung trên tài liệu so sánh không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu chức danh có nội dung “Trưởng phòng chăm sóc sức khỏe cộng đồng BSCKI. Lê Thị Thanh” trên tài liệu cần giám định so với hình dấu chức danh có cùng nội dung được đóng ra từ con dấu thu giữ của Nguyễn Thị T là do cùng một con dấu đóng ra.

Các chữ viết ghi tại mặt thứ 2 và thứ 3 trên các Giấy khám sức khỏe so với chữ viết của Nguyễn Thị T không đủ cơ sở để kết luận.” Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 04/01/2022, Viện Kiểm sát nhân dân quận K đã truy tố Nguyễn Thị T về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thị T phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Do đó, Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Thị T về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 và khoản 4 Điều 341; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Thị T từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 42 tháng tù và hình phạt bổ sung là phạt tiền 5.000.000 đồng của Bản án số 64/2021/HS-ST ngày 24/9/2021, của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung. Phạt tiền đối với bị cáo số tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Về vật chứng: Tích thu tiêu hủy các con dấu để làm giấy khám sức khỏe giả; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Nokia lắp sim số 0982.137721, số tiền 400.000 đồng; trả lại bị cáo 01 điện thoại OPPO vỏ màu đỏ lắp sim số 0945.279566; 01 điện thoại OPPO vỏ màu đen lắp sim số 0965.098109; 01 xe mô tô Wave biển kiểm soát 16N5 – 8797; 01 case máy tính màu đen nhãn hiệu Omega; 01 máy in HP 127WF màu đen; Trả lại anh Đỗ Trung H số tiền 100.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về người tham gia tố tụng: Trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì anh Đỗ Trung H là người làm chứng. Tại phiên tòa xét thấy cần trả lại anh Hà số tiền không tham gia vào giao dịch trái pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định anh Hà tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[3] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 9 giờ 30 phút ngày 10/9/2021, tại trước cửa nhà số 952 Đường Nguyễn Lương Bằng, phường Văn Đẩu, quận K, thành phố Hải Phòng, bị cáo Nguyễn Thị T đã có hành vi làm giả 02 tờ giấy khám sức khỏe của Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng và bán cho anh Đỗ Trung H với giá 400.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội Làm giả giấy tờ của cơ quan, tổ chức. Với hành vi làm giả 02 giấy khám sức khỏe giả bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự. Như vậy, Viện Kiểm sát nhân dân quận K đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị T, về tội danh theo điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động bình thường của các tổ chức, cơ quan Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính được pháp luật bảo vệ và còn gây mất trật tự trị án xã hội. Do đó, cần áp dụng điểm c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, để cải tạo giáo dục bị cáo và đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung. Bị cáo phạm tội trong trường hợp đã có Bản án số 64/ 2021/HS-ST ngày 24/9/2021, của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xử phạt 42 tháng tù về tội Làm giả giấy tờ của cơ quan, tổ chức đã có hiệu lực pháp luật. Mặc dù bản án này không làm căn cứ để đánh giá hành vi của bị cáo là tái phạm, nhưng đánh giá bị cáo là người có nhân thân xấu, coi thường pháp luật. Do đó, cần áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt của hai bản án, buốc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Thị T số tiền 5.000.000 đồng để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật; tổng hợp hình phạt tiền 5.000.000 đồng của Bản án số 64/2021/HS-ST ngày 24/9/2021, của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

[6] Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 05 tờ giấy khám sức khỏe khổ A3; 07 dấu chức danh lần lượt ghi nội dung: “BS Trần Văn An”, “BS Hoàng T Anh”, “BS Phạm Văn Nam”, “BS Nguyễn Thị Nhung”, “BS Hoàng Thị Tn”, “BS Nguyễn Thị Yến”, “BS Nguyễn Thị Cúc”; 01 dấu tròn “Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng”; 01 dấu chức danh “Trưởng phòng chăm sóc sức khỏe cộng đồng – BSCKI. Lê Thị Thanh”;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Nokia có lắp sim số 0982.137721, số tiền 500.000 đồng; trả lại cho T 01 điện thoại OPPO vỏ màu đỏ có lắp sim số 0945.279566; 01 điện thoại OPPO vỏ màu đen có lắp sim số 0965.098109; 01 case máy tính nhãn hiệu Omega; 01 máy in HP 127WF màu đen; 01 xe mô tô Wave biển kiểm soát 16N5 – 8797; Trả lại anh Đỗ Trung H số tiền 100.000 đồng.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 và khoản 4 Điều 341; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp 42 tháng tù của Bản án số 64/2021/HS-ST ngày 24/9/2021, của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 78 (Bảy mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 10/9/2021.

Phạt tiền bị cáo Nguyễn Thị T số tiền 5.000.000 đồng; tổng hợp hình phạt tiền 5.000.000 đồng của Bản án số 64/2021/HS-ST ngày 24/9/2021, của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) để nộp vào ngân sách Nhà nước.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 05 (năm) tờ giấy khám sức khỏe khổ A3; 07 (bảy) dấu lần lượt ghi nội dung: “BS Trần Văn An”, “BS Hoàng T Anh”, “BS Phạm Văn Nam”, “BS Nguyễn Thị Nhung”, “BS Hoàng Thị Tn”, “BS Nguyễn Thị Yến”, “BS Nguyễn Thị Cúc”; 01 (một) dấu tròn “Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng”; 01 (một) dấu chức danh “Trưởng phòng chăm sóc sức khỏe cộng đồng – BSCKI. Lê Thị Thanh”;

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Nokia có lắp sim số 0982.137721 và số tiền 400.000 đồng (Bốn Trăm nghìn đồng) của bị cáo Nguyễn Thị T;

Trả lại bị cáo Nguyễn Thị T 01 điện thoại OPPO vỏ màu đỏ có lắp sim số 0945.279566; 01 điện thoại OPPO vỏ màu đen có lắp sim số 0965.098109; 01 case máy tính nhãn hiệu Omega; 01 máy in HP 127WF màu đen; 01 xe mô tô Wave biển kiểm soát 16N5 – 8797.

Trả lại anh Đỗ Trung H số tiền 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng). Theo biên bản giao vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Hải Phòng.

- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Nguyễn Thị T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2773
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về