Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 09/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 23 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 11/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HS ngày 9/02/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1979; Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Phòng xxxxx, khu B, khu đô thị mới D, phường Y, quận H, thành phố H. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Đ (sinh năm 1942), và bà: Trần Thị V, sinh năm 1948; Có vợ là Phan Thị M, sinh năm 1981 và có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Theo Danh bản số 00000679 lập ngày 04/10/2021 tại Công an quận Nam Từ Liêm và lý lịch cá nhân bị cáo Đ không có tiền sự, tiền án. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/9/2021 đến ngày 22/9/2021, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường Y, quận H, thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Công ty trách nhiệm hữu hạn T&Q. Địa chỉ trụ sở:  Số xx đường P, phường C, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Chí T- Chức danh: Chủ tịch Hội đồng thành viên. Đại diện theo ủy quyền: Bà Phạm Thị Thúy H, sinh năm 1982 – Chức vụ: Trưởng phòng hành chính nhận sự Công ty TNHH T & Q; Địa chỉ: Số xx, hẻm xxxxx Đội Cấn, phường V, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội (vắng mặt).

2. Bà Trần Thục Q , sinh năm 1973. HKTT:  Số xx Phan Phù Tiên, phường C, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội; Nơi ở: Khu nhà XXXXX, khu ngoại giao đoàn, phường X, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội (vắng mặt).

3. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long. Địa chỉ: Số xxxA Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, Đại diện theo ủy quyền: Bà Phạm Thị Thúy Hằng – Phó Giám đốc (vắng mặt).

4. Văn phòng công chứng Trương Thị Nga. Địa chỉ trụ sở: XXXXX khu đô thị V- Y, phường Phúc La, quận Hà Đ, thành phố Hà Nội. Người đại diện: Bà Trương Thị Nga, sinh năm 1957- Trưởng Văn phòng. Địa chỉ: XXXXXkhu đô thị V- Y, phường Phúc La, quận Hà Đ, thành phố Hà Nội (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 8/2020, Nguyễn Văn Đ có nhận làm hồ sơ kiểm nghiệm chất lượng bia nhập khẩu cho Công ty trách nhiệm hữu hạn T&Q có địa chỉ tại  Số xx đường P, phường C, quận Đống Đa, Hà Nội nên có được bản Scan màu Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty T&Q và chứng minh nhân dân của giám đốc công ty là chị Trần Thục Q . Đ đã nảy sinh ý định làm giả con dấu, tài liệu của Công ty T&Q để mở tài khoản thanh toán đứng tên Công ty T&Q với mục đích để kinh doanh thực phẩm. Khoảng tháng 2/2021, Đ lên mạng Internet tìm kiếm dịch vụ làm con dấu rồi gửi mã số thuế và tên Công ty T&Q cho một người không quen biết để đặt làm con dấu chức danh “Chủ tịch hội đồng thành viên Phan Chí T” và con dấu chức danh “Giám đốc Trần Thục Q ” hết 2.000.000 đồng. Đến khoảng đầu tháng 6/2021, Đ lên mạng Internet tìm kiếm và tải về máy tính laptop nhãn hiệu DELL màu trắng đen, mẫu điều lệ doanh nghiệp, mẫu Biên bản họp hội đồng thành viên sau đó chỉnh sửa nội dung mẫu Điều lệ doanh nghiệp thành “Điều lệ Công ty TNHH T&Q”, rồi ký giả chữ ký của chủ tịch hội đồng thành viên Phan Chí Tvà chữ ký của giám đốc Trần Thục Q sau đó lấy con dấu giả đã đặt mua đóng dấu giáp lai vào các tờ của điều lệ trên. Đối với mẫu Biên bản họp hội đồng thành viên, Đ chỉnh sửa nội dung thành “Biên bản họp hội đồng thành viên về việc Bổ nhiệm Giám đốc” Trần Thục Q , ký giả chữ ký của chủ tịch hội đồng thành viên Phan Chí T, chữ ký của giám đốc Trần Thục Q rồi dùng con dấu Công ty T&Q giả đóng lên chữ ký Phan Chí T, dùng dấu chức danh “Chủ tịch hội đồng thành viên Phan Chí T” đóng vào bên dưới phần chữ ký. Đ liên hệ với một công ty dịch thuật (Đ không nhớ thông tin) để gửi file pdf giấy đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH T&Q và chứng minh nhân dân của chị Trần Thục Q cho công ty dịch thuật đó làm chứng thực. Sau khi nhận được bản sao chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty T&Q và Chứng minh nhân dân của chị Trần Thục Q có dấu đỏ của Văn phòng công chứng Trương Thị Nga, ký và đóng dấu công chứng viên Trương Thị Nga nhận thấy tại cuối trang đầu tiên của bản sao chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có khoảng trống dài và người đại diện pháp luật của Công ty trên Giấy chứng nhận là anh Trần Chí Trung, để có thể ký giả chữ ký giám đốc Trần Thục Q làm thủ tục mở tài khoản thanh toán của Công ty T&Q nên Đ đã tự soạn thảo nội dung thông tin của giám đốc Trần Thục Q trên máy tính của mình rồi dùng máy in nhãn hiệu Canon Scan nội dung trên vào khoảng trắng tại cuối trang đầu tiên trên bản sao chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty T&Q. Sau khi có các giấy tờ trên, Đ đến Phòng giao dịch tại địa chỉ số xx đường Tố Hữu, phường M, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội của Ngân hàng Vietinbank - chi nhánh Nam Thăng Long lấy mẫu tờ khai đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán, tự tay điền, khai thông tin, trong đó điền số điện thoại 0393902519 của Đ rồi ký giả chữ ký của giám đốc Trần Thục Q vào tờ khai, dùng con dấu Công ty T&Q giả đóng vào mục “Mẫu dấu thứ nhất”, “Mẫu dấu thứ hai”, đóng lên chữ ký Trần Thục Q và đóng giáp lai các tờ của tờ khai và dùng dấu chức danh giám đốc Trần Thục Q đóng phía dưới chữ ký Trần Thục Q .

Ngày 04/6/2021, Đ mang toàn bộ hồ sơ gồm: Bản sao chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty T&Q (đã thêm thông tin của Giám đốc Trần Thục Q ); Bản sao chứng thực Chứng minh nhân dân Trần Thục Q ; Giấy đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán của Công ty T&Q giả; Biên bản họp hội đồng thành viên Công ty TNHH T&Q; Điều lệ Công ty TNHH T&Q đến Ngân hàng Vietinbank - Chi nhánh Nam Thăng Long – phòng giao dịch Tố Hữu để mở tài khoản mang tên Công ty T&Q. Tại ngân hàng, chị Lê Thu Thủy (Sinh năm: 1994; HKTT: Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội) - nhân viên ngân hàng tiếp nhận hồ sơ mở tài khoản của Nguyễn Văn Đ. Khoảng 14 giờ 26 phút cùng ngày, ngân hàng Vietinbank gọi điện thông báo cho Đ biết tài khoản thanh toán mang tên “Công ty TNHH T&Q” đã được mở, nhắn tin cho Đ số tài khoản 113002884428 của Công ty và yêu cầu Đ chuyển tiền vào tài khoản để duy trì tài khoản, Đ đã nộp số tiền 1.100.000 đồng vào tài khoản trên theo yêu cầu.

Khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày, Đ nhận được cuộc gọi từ Ngân hàng Vietinbank yêu cầu Đ ngày hôm sau phải trở lại ngân hàng đem theo bản gốc Chứng minh nhân dân Trần Thục Q , bản gốc giấy đăng ký doanh nghiệp Công ty T&Q, mẫu dấu gốc của Công ty T&Q để đối chiếu lại thông tin. Sáng 05/6/2021, Đ có mặt tại Ngân hàng Vietinbank nhưng không cung cấp được những tài liệu trên. Ngân hàng Vietinbank thông báo nếu Đ không cung cấp được thì phía ngân hàng sẽ chuyển hồ sơ sang cơ quan công an để làm rõ. Do lo sợ bị phát hiện nên sau khi về nhà tại địa chỉ P1101, CT8C, khu B, KĐTM D, phường Y, quận Hà Đ, Hà Nội, Đ đã xóa toàn bộ file Điều lệ Công ty TNHH T&Q, Giấy đăng ký doanh nghiệp của Công ty TNHH T&Q, Biên bản họp hội đồng thành viên về việc bổ nhiệm giám đốc Trần Thục Q mà Đ đã chỉnh sửa, lưu trên máy tính của mình. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, Đ đã mang con dấu công ty T&Q giả, con dấu chức danh chủ tịch hội đồng thành viên Phan Chí Tgiả, con dấu chức danh giám đốc Trần Thục Q xuống khu vực hóa vàng trong khuôn viên khu chung cư khu B Khu đô thị D, Y, Hà Đ, Hà Nội tiêu hủy.

Ngày 18/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Nam Từ Liêm nhận được trình báo của Công ty trách nhiệm hữu hạn T&Q (có địa chỉ tại  Số xx đường P, phường C, quận Đống Đa, Hà Nội) về việc vào ngày 04/6/2021, có một cá nhân đến Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam (Vietinbank) chi nhánh Nam Thăng Long - Phòng giao dịch tại địa chỉ số xx đường Tố Hữu, phường M, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội dùng chữ ký, con dấu, tài liệu nghi là giả để mở tài khoản ngân hàng mang tên Công ty T&Q. Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã tiến hành xác minh xác định đối tượng liên quan là Nguyễn Văn Đ. Ngày 13/9/2021, Nguyễn Văn Đ đến Cơ quan điều tra - Công an quận Nam Từ Liêm để làm việc. Ngày 13/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Nam Từ Liêm tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đ tại địa chỉ P1101, CT8C, khu B, Khu đô thị D, Y, Hà Đ, Hà Nội.

Vật chứng thu giữ:

- 01 bản gốc giấy đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán - dành cho tổ chức, tên tổ chức: Công ty TNHH T&Q; 01 bản gốc Biên bản họp hội đồng thành viên Công ty TNHH T&Q; 01 bản gốc Điều lệ Công ty TNHH T&Q; 01 bản gốc bản sao chứng thực số 71192 Chứng minh nhân dân Trần Thục Q; 01 bản gốc bản sao chứng thực số 71193 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên của Công ty TNHH T&Q; (Ngân hàng Viettinbank cung cấp).

- 01 điện thoại di động Iphone 6S màu ghi gắn sim số 0904663102; 01 điện thoại di động Nokia màu đen gắn sim số 0904575768 và 01 phôi sim điện thoại số 0393902519 trên bề mặt sim đề mã số 0984048000069065616 (Nguyễn Văn Đ giao nộp).

- 01 máy tính laptop nhãn hiệu DELL màu trắng đen, mã số 8xx1900285; 01 máy in nhãn hiệu Canon MF4720W màu đen bạc (thu giữ khi khám xét chỗ ở của Đ).

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của minh như đã nêu trên.

Bản kết luận giám định số: 6619/KLGD-PC09-Đ3 ngày 05/9/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Hình dấu tròn “VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRƯƠNG THỊ NGA” trên các mẫu cần giám định tại Bản sao "Chứng minh nhân dân" số 001173004103, họ và tên: Trần Thục Q , cấp ngày 22/5/2015, ngày chứng thực: 01/9/2020 Bản sao "Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên", tên công ty: Công ty TNHH T&Q, ngày chứng thực: 01/9/2020 với hình dấu tròn “VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRƯƠNG THỊ NGA” trên mẫu so sánh tại “Biên bản thu thập mẫu dấu” hình dấu tròn “VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRƯƠNG THỊ NGA”, đề ngày 02/8/2021 do cùng một con dấu đóng ra.

- Hình dấu tròn “CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN T&Q” trên các mẫu cần giám định tại "Giấy đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán" - Dành cho tổ chức, tên tổ chức: Công ty TNHH T&Q, đề ngày 04/7/2021 "Biên bản họp hội đồng thành viên công ty T&Q (v/v: Bổ nhiệm giám đốc)", đề ngày 15/10/2020 với hình dấu tròn “CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN T&Q” trên mẫu so sánh tại “Giấy xác nhận dấu công ty” hình dấu tròn “CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN T&Q”, đề ngày 22/6/2021 không phải do cùng một con dấu đóng ra.

- Không đủ cơ sở kết luận chữ ký đứng tên Trương Thị Nga trên các mẫu cần giám định tại Bản sao "Chứng minh nhân dân" số 001173004103, họ và tên: Trần Thục Q , cấp ngày 22/5/2015, ngày chứng thực: 01/9/2020 Bản sao "Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên", tên công ty: Công ty TNHH T&Q, ngày chứng thực: 01/9/2020 với chữ ký đứng tên Trương Thị Nga trên mẫu so sánh tại “Biên bản thu thập mẫu chữ ký” người cung cấp đứng tên Trương Thị Nga, đề ngày 02/8/2021 có phải là chữ do cùng một người ký ra hay không.

- Không đủ cơ sở kết luận chữ ký đứng tên Trần Thục Q trên “Giấy đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán" - Dành cho tổ chức, tên tổ chức: Công ty TNHH T&Q, đề ngày 04/7/2021; "Biên bản họp hội đồng thành viên công ty T&Q (v/v: Bổ nhiệm giám đốc)", đề ngày 15/10/2020 Điều lệ công ty TNHH T&Q đề ngày 07/5/2020 với chữ ký mục “Mẫu chữ ký giám đốc” trên mẫu so sánh tại “Giấy xác nhận mẫu chữ ký” giám đốc công ty TNHH T&Q, đề ngày 22/6/2021 có phải do cùng một người ký ra hay không.

- Không đủ cơ sở kết luận chữ ký đứng tên Phan Chí Ttrên "Biên bản họp hội đồng thành viên công ty T&Q (v/v: Bổ nhiệm giám đốc)", đề ngày 15/10/2020 Điều lệ công ty TNHH T&Q đề ngày 07/5/2020 với chữ ký mục “Mẫu chữ ký CT HĐTV” trên mẫu so sánh tại “Giấy xác nhận mẫu chữ ký” CT HĐTV công ty TNHH T&Q, đề ngày 22/6/2021 có phải do cùng một người ký ra hay không.

Bản kết luận giám định số: 7752/KLGD-PC09-Đ3 ngày 03/11/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Hình dấu giáp lai “CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN T&Q” trên các mẫu cần giám định tại "Giấy đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán" - Dành cho tổ chức, tên tổ chức: Công ty TNHH T&Q, đề ngày 04/7/2021 "Điều lệ Công ty TNHH T & Q", đề ngày 07/5/2020 với hình dấu tròn “CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN T&Q” trên mẫu so sánh tại “Giấy xác nhận dấu công ty” hình dấu tròn “CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN T&Q”, đề ngày 22/6/2021 không phải do cùng một con dấu đóng ra.

- Chữ ký đứng tên Trần Thục Q trên các mẫu cần giám định tại "Biên bản họp hội đồng thành viên công ty TNHH T&Q (v/v: Bổ nhiệm Giám đốc", số:

01/2020-BB, đề ngày 15/10/2020 "Giấy đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán" - Dành cho tổ chức, tên tổ chức: Công ty TNHH T&Q, đề ngày 04/7/2021 với chữ ký đứng tên Trần Thục Q do Nguyễn Văn Đ ký thực nghiệm trên mẫu so sánh tại “Biên bản thu thập mẫu chữ ký” người cung cấp mẫu đứng tên Nguyễn Văn Đ ký thực nghiệm chữ ký đứng tên Trần Thục Q , đề ngày 13/9/2021 là chữ do cùng một người ký ra.

Không đủ cơ sở kết luận chữ ký đứng tên Trần Thục Q trên mẫu cần giám định tại "Điều lệ Công ty TNHH T & Q", đề ngày 07/5/2020 với chữ ký đứng tên Trần Thục Q do Nguyễn Văn Đ ký thực nghiệm trên mẫu so sánh tại “Biên bản thu thập mẫu chữ ký” người cung cấp mẫu đứng tên Nguyễn Văn Đ ký thực nghiệm chữ ký đứng tên Trần Thục Q, đề ngày 13/9/2021 có phải do cùng một người ký ra hay không.

- Chữ ký đứng tên Phan Chí Ttrên các mẫu cần giám định tại "Biên bản họp hội đồng thành viên công ty TNHH T&Q (v/v:Bổ nhiệm Giám đốc", số:

01/2020-BB, đề ngày 15/10/2020 "Điều lệ Công ty TNHH T & Q", đề ngày 07/5/2020 với chữ ký đứng tên Phan Chí Tdo Nguyễn Văn Đ ký thực nghiệm trên mẫu so sánh tại “Bản thu thập mẫu chữ ký” người cung cấp mẫu đứng tên Nguyễn Văn Đ ký thực nghiệm chữ ký Phan Chí T, đề ngày 13/9/2021 là chữ do cùng một người ký ra.

- Chữ viết phần nội dung trên mẫu cần giám định tại "Giấy đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán" - Dành cho tổ chức, tên tổ chức: Công ty TNHH T&Q, đề ngày 04/7/2021 với chữ viết đứng tên Nguyễn Văn Đ trên mẫu so sánh tại “Bản tự khai” đứng tên Nguyễn Văn Đ, đề ngày 13/9/2021 là chữ do cùng một người viết ra.

Đối với việc hình dấu tròn “Văn phòng công chứng Trương Thị Nga” tại bản sao Chứng minh nhân dân Trần Thục Q ; bản sao giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty T&Q với hình dấu tròn “Văn phòng công chứng Trương Thị Nga” tại biên bản thu thập mẫu dấu do văn phòng Trương Thị Nga cung cấp là do cùng một con dấu đóng ra. Quá trình điều tra, bà Trương Thị Nga (Sinh năm: 1957; HKTT: Khu đô thị V, phường Phúc La, quận Hà Đ, Hà Nội) - Trưởng Văn phòng công chứng khai không tiến hành chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty T&Q và Chứng minh nhân dân Trần Thục Q . Con dấu của văn phòng được để tại văn phòng cho các nhân viên sử dụng chung, không giao cho ai quản lý, bà Nga không biết ai đã sử dụng con dấu để đóng vào bản sao chứng thực của các tài liệu trên. Bà không biết, không liên quan đến việc làm giả con dấu, tài liệu của Nguyễn Văn Đ. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với con dấu của Công ty T&Q giả do Đ khai sử dụng để đóng vào các tài liệu giả. Quá trình điều tra, Đ khai đã tiêu hủy con dấu tại khu vực hóa vàng trong khuôn viên khu chưng cư khu B Khu đô thị D, Y, Hà Đ, Hà Nội. Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát tại khu vực trên nhưng không thu giữ được con dấu trên nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với đối tượng đã làm giả con dấu Công ty T&Q và chứng thực các giấy tờ giúp Đ, quá trình điều tra Đ khai không biết thông tin nhân thân, lai lịch nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Bản cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 7/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chứctheo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 47; Điều 65 Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng;

Tịch thu số tiền 1.100.000 đồng Nguyễn Văn Đ đã nộp vào số tài khoản 113002884428 mang tên “Công ty TNHH T&Q” hiện Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam (Vietinbank) chi nhánh Nam Thăng Long – Phòng giao dịch Tố Hữu đã chuyển vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm tại Kho bạc Nhà nước quận Nam Từ Liêm.

Tịch thu sung quỹ Nhà Nước: Một hộp catton niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn Đ và Điều tra viên bên trong đựng: 01 điện thoại di động Iphone 6S màu ghi gắn sim số 0904663102; 01 điện thoại di động Nokia màu đen gắn sim số 0904575768 và sim số 02439949899. Một thùng catton niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn Đ, Phan Thị Minh và Điều tra viên bên trong đựng 01 máy tính laptop nhãn hiệu DELL màu trắng đen, mã số 8xx1900285; 01 máy in nhãn hiệu Canon MF4720W màu đen bạc.

Tịch thu tiêu hủy 01 phôi sim điện thoại số 0393902519 trên bề mặt sim đề mã số 0984048000069065616.

Lời nói sau cùng bị cáo Nguyễn Văn Đ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; phù hợp với biên bản thu giữ vật chứng, các Bản kết luận giám định số 6619/KLGD-PC09-Đ3 ngày 05/9/2021 và số 7752/KLGD-PC09-Đ3 ngày 03/11/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hà Nội; phù hợp với các biên bản, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

[3] Những chứng cứ trên đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng đầu tháng 02/2021, Nguyễn Văn Đ tìm kiếm dịch vụ làm dấu trên mạng Internet rồi gửi mã số thuế và tên Công ty trách nhiệm hữu hạn T&Q có địa chỉ tại  Số xx đường P, phường C, quận Đống Đa, Hà Nội để đặt làm giả 01 con dấu Công ty trách nhiệm hữu hạn T&Q của một đối tượng không quen biết. Sau đó, Đ tiếp tục tải các mẫu Biên bản họp hội đồng thành viên; Điều lệ doanh nghiệp trên mạng Internet rồi chỉnh sửa các nội dung cho phù hợp với Công ty trách nhiệm hữu hạn T&Q, ký giả chữ ký của giám đốc và chủ tịch hội đồng quản trị và sử dụng con dấu giả đóng lên: 01 Biên bản họp hội đồng thành viên; 01điều lệ của Công ty trách nhiệm hữu hạn T&Q; 01 giấy đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán. Ngày 4/6/2021, Đ sử dụng các giấy tờ giả trên để làm hồ sơ mở tài khoản thanh toán mang tên Công ty trách nhiệm hữu hạn T&Q tại Phòng giao dịch địa chỉ số xx đường Tố Hữu, phường M, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội của Ngân hàng Vietinbank - chi nhánh Nam Thăng Long thì bị phát hiện thu giữ.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ đã phạm vào tội “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự. Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Đ là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, sự hoạt động bình thường, uy tín của các cơ quan Nhà nước, tổ chức mà còn xâm phạm các lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức, công dân nên phải xử lý nghiêm.

[5] Khi lượng hình phạt xét: Nhân thân bị cáo không có tiền án, tiền sự, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bố, mẹ đẻ là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huy chương. Đây là nghững căn cứ để cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Cũng xét bị cáo Đ có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, việc cho bị cáo Đ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội nên không cần bắt bị cáo Đ chấp hành hình phạt tù, áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự, tuyên cho bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, giao cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục cũng đủ để giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung xét bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về các biện pháp tư pháp:

- Trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều xác định hành vi của bị cáo chưa gây thiệt hại và không có yêu cầu gì về phần bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Vật chứng của vụ án hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm đang quản lý gồm: Số tiền 1.100.000 đồng Nguyễn Văn Đ đã nộp vào số tài khoản 113002884428 mang tên “Công ty TNHH T&Q” tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam (Vietinbank) chi nhánh Nam Thăng Long – phòng giao dich Tố Hữu đã được chuyển vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm tại Kho bạc Nhà nước quận Nam Từ Liêm; Một hộp catton niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn Đ và Điều tra viên (bên trong đựng 01 điện thoại di động Iphone 6S màu ghi gắn sim số 0904663102; 01 điện thoại di động Nokia màu đen gắn sim số 0904575768 và sim số 02439949899); Một thùng catton niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn Đ, Phan Thị Minh và Điều tra viên (bên trong đựng 01 máy tính laptop nhãn hiệu DELL màu trắng đen, mã số 8xx1900285; 01 máy in nhãn hiệu Canon MF4720W màu đen bạc). Xét đây là tiền và các công cụ bị cáo Đ sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. 01 phôi sim điện thoại số 0393902519 trên bề mặt sim đề mã số 0984048000069065616 do Đ giao nộp không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Việc xử lý các vật chứng trên theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Bị cáo Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 341; khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 337 và Điều 338 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng tính từ ngày 23/02/2022 (đã bị tạm giữ từ ngày 13/9/2021 đến ngày 22/9/2021).

Giao Nguyễn Văn Đ cho Ủy ban nhân dân phường phường Y, quận Hà Đ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ từ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Vật chứng vụ án: Tịch thu sung quỹ Nhà nước: Số tiền 1.100.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng); Một hộp catton niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn Đ và Điều tra viên (bên trong đựng: 01 điện thoại di động Iphone 6S màu ghi gắn sim số 0904663102; 01 điện thoại di động Nokia màu đen gắn sim số 0904575768 và sim số 02439949899); Một thùng catton niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn Đ, Phan Thị Minh và Điều tra viên (bên trong đựng 01 máy tính laptop nhãn hiệu DELL màu trắng đen, mã số 8xx1900285; 01 máy in nhãn hiệu Canon MF4720W màu đen bạc). Tịch thu tiêu hủy 01 phôi sim điện thoại số 0393902519 trên bề mặt sim đề mã số 0984048000069065616. Các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm đang quản lý theo Ủy nhiệm chi của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long- phòng giao dịch Tố Hữu chuyển tiền vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm tại Kho bạc Nhà nước quận Nam Từ Liêm (chuyển tiền theo DN của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm số 102/CVVKSNTL ngày 7/01/2022) và biên bản bàn giao vật chứng số 87 ngày 13/01/2022.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Nguyễn Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1607
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về