Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 68/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 68/2023/HS-ST NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 71/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo:

Huỳnh Tấn D; sinh năm 1983, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú (nơi đăng ký thường trú: 361/14/38A Bình Đông, Phường 15, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định); nghề nghiệp: Làm công; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn S (chết) và bà Phạm Thị G (chết); có vợ (đã ly hôn) và có 03 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/02/2023 đến nay. (có mặt)

- Bị hại: Bà Lê Thị Kim C, sinh năm 1966; nơi cư trú (hộ khẩu thường trú: Tổ 1, khu phố PA, phường T, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước; chỗ ở: ADV, Phường MS, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh). (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Lê Minh T, sinh năm 1992; nơi cư trú (hộ khẩu thường trú: khu phố PA, phường TX, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước; chỗ ở: ADV, Phường MS, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh). (vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Thanh H – Chủ Hộ kinh doanh Dịch vụ cầm đồ QA 2; địa chỉ kinh doanh: ADVương, Phường M, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú của ông H: ADV, Phường M, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Hùng: Chị Trần Thị Thu H, sinh năm 1988; nơi cư trú (hộ khẩu thường trú: đường TCh, phường BT, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định; chỗ ở: ADV, Phường M, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh). (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Tấn D và bà Lê Thị Kim C có quan hệ tình cảm và chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2020. Bà C làm việc và ở tại chỗ làm của mình tại địa chỉ ADV, Phường ML, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. D và bà C sống chung tại đây cùng với con riêng của bà C là anh Lê Minh Th. Vào tháng 02/2022, anh Th mua một xe gắn máy hiệu Honda Airblade, màu trắng đen, biển số: 93P2-X. Do ở chung nhà nên anh Th thường xuyên để xe ở nhà và đồng ý để mẹ là bà C quản lý, sử dụng. Do bà C và D sống chung như vợ chồng nên khi được anh Th giao xe cho quản lý, sử dụng, bà C và D cùng sử dụng chung làm phương tiện đi lại hàng ngày.

Vào khoảng 08 giờ ngày 01/8/2022, sau khi D thức dậy tại nhà số ADV, Phường ML, Quận Y, D mang xe gắn máy biển số: 93P2-X đến Dịch vụ cầm đồ QA 2, địa chỉ: 354 ADV, Phường M, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh cầm cố cho chị Trần Thị Thu H (người quản lý tiệm cầm đồ QA 2); thỏa thuận thời hạn cầm cố xe đến ngày 28/8/2022, số tiền cầm cố 26.000.000 đồng.

Sau khi có được số tiền 26.000.000 đồng, D nạp tiền chơi game đến khi hết tiền thì đi lang thang không về nhà ADV, Phường ML, Quận Y. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày 01/8/2022, bà C gọi điện thoại cho D hỏi xe gắn máy biển số: 93P2-X đâu thì D nói đã mang xe đi cầm lấy tiền nạp vào chơi game. Đến khoảng 15 giờ ngày 02/8/2022, được biết D đang ở khuôn viên của Bệnh viện Chợ Rẫy, bà C đến gặp rồi đưa D đến Công an Phường ML, Quận Y trình báo vụ việc. Sau khi tiếp nhận, Công an Phường ML, Quận Y chuyển hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 điều tra làm rõ.

Quá trình điều tra, Huỳnh Tấn D đã khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt xe gắn máy biển số: 93P2-X, bà C yêu cầu D chuộc xe trả lại cho bà C. Sau khi được tạm cho về, do không có tiền chuộc xe trả cho bà C nên D bỏ trốn. Qua xác minh ngày 30/9/2022, tại Dịch vụ cầm đồ QA 2, Huỳnh Tấn D vẫn chưa thanh toán tiền cầm cố xe biển số: 93P2-X. Ngày 02/8/2022, chị Trần Thị Thu H là đại diện tiệm cầm đồ đã bàn giao xe cho Cơ quan điều tra xử lý theo quy định.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 227/KL-HĐĐGTS ngày 30/8/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Quận 8 kết luận 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu trắng đen, biển số: 93P2-X, số khung: RLHJF633XMZ153160, số máy: JF94E0386345, theo hình ảnh do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 cung cấp, qua khảo sát thực tế tài sản có trị giá là: 44.000.000 đồng.

Ngày 03/10/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra quyết định bắt tạm giam đối với Huỳnh Tấn D. Do D bỏ trốn nên Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã. Ngày 14/02/2023, D bị Công an Phường ML, Quận 8 bắt theo quyết định truy nã.

Việc tạm giữ, xử lý vật chứng trong vụ án:

Xe gắn máy hiệu Honda Airblade biển số: 93P2-X và 01 Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy đứng tên chủ xe là Lê Minh Th. Ngày 03/10/2022, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại xe và giấy đăng ký xe cho bà C và anh Th. Ngày 15/10/2022 anh Th, bà C đã nhận lại giấy tờ và chiếc xe trên.

Về trách nhiệm dân sự:

- Bà Lê Thị Kim C và anh Lê Minh Th đã nhận lại xe gắn máy biển số: 93P2 - X, đồng thời không yêu cầu bị cáo D bồi thường thiệt hại.

- Chị Trần Thị Thu H là người đại diện theo ủy quyền của Chủ hộ kinh doanh tiệm cầm đồ QA 2 yêu cầu Huỳnh Tấn D hoàn trả số tiền 26.000.000 đồng là tiền nhận cầm cố chiếc xe gắn máy hiệu Honda Airblade biển số: 93P2 - X.

Tại bản Cáo trạng số 82/CT-VKS-Q8 ngày 17/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Huỳnh Tấn D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, theo điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Huỳnh Tấn D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, lời đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt của người bị hại, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 15 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng, Cơ quan điều tra đã xử lý nên không đề cập giải quyết. Về trách nhiệm dân sự, bị hại không có yêu cầu bồi thường nên không đề cập giải quyết. Đề nghị chấp nhận yêu cầu của người đại diện hợp pháp Hộ kinh doanh dịch vụ cầm đồ QA 2 về việc yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền cầm cố xe là 26.000.000 đồng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt. Bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định: Vào khoảng 08 giờ ngày 01/8/2022, tại nhà số ADV, Phường ML, Quận Y bị cáo mang xe gắn máy biển số: 93P2-X do chị Lê Thị Kim C quản lý đến Dịch vụ cầm đồ QA 2, địa chỉ: 354 ADV, Phường M, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh cầm cố lấy số tiền 26.000.000 đồng; bị cáo sử dụng toàn bộ số tiền này vào việc chơi game. Do không có khả năng trả lại tài sản cho bà C nên bị cáo bỏ trốn, ngày 14/02/2023 bị cáo bị Công an Phường 15, Quận 8 bắt theo quyết định truy nã.

[3] Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” như sau:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo Huỳnh Tấn D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Sau khi phạm tội, bị cáo đã bỏ trốn và bị truy nã, điều này đã gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử cũng xem xét để có căn cứ áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

[6] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[7] Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại phiên tòa, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[8] Đối với Hộ kinh doanh Dịch vụ cầm đồ QA 2, địa chỉ: 354 ADV, Phường M, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh do bà Trần Thị Thu H đại diện khi nhận cầm cố chiếc xe gắn máy biển số: 93P2-X, do không biết xe bị cáo phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý.

[9] Xét thấy, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Thị Kim C không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Người đại diện hợp pháp của Hộ kinh doanh Dịch vụ cầm đồ QA 2 yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 26.000.000 đồng, là tiền cầm cố xe gắn máy biển số: 93P2-X. Xét thấy, tại phiên tòa, bị cáo đồng ý hoàn trả số tiền này cho Hộ kinh doanh Dịch vụ cầm đồ QA 2 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn D 01 (một) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/02/2023.

- Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

các điều 357, 468 của Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Huỳnh Tấn D hoàn trả cho Hộ kinh doanh Dịch vụ cầm đồ QA 2 số tiền 26.000.000 (hai mươi sáu triệu) đồng. Thi hành ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật, tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, cơ quan Thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chưa thi hành đầy đủ khoản tiền bồi thường thiệt hại về tài sản theo mức nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các điều 357, 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Huỳnh Tấn D nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm 1.300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 68/2023/HS-ST

Số hiệu:68/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về