Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 51/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TH PHỐ B, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 51/2023/HS-ST NGÀY 17/05/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường X, Thành phố B, tỉnh B, Tòa án nhân dân Thành phố B xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2023/TLHS - ST ngày 04 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2023/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Thế H; tên gọi khác: Không; sinh ngày 01 tháng 5 năm 1993; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn P, xã H, huyện Ng, tỉnh B; nghề Nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Phạm Thế N và bà Hoàng Thị Ng; vợ: Bùi Thị X; con: có 01 con, sinh năm 2017; tiền sự: Không.

Tiền án: 01 tiền án (Tại bản án Hình sự phúc thẩm số 15/2020/HSPT, ngày 15/7/2020, Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt Phạm Thế H 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; ngày 27/01/2022 chấp hành án xong, chưa được xóa án tích).

Nhân thân: Ngày 05/11/2013, bị TAND huyện Ng, tỉnh B xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích). Ngày 02/11/2017, bị Công an phường H, Thành phố B, tỉnh B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “uống rượu bia say gây mất trật tự công cộng”, mức phạt 750.000 đồng, đã nộp phạt ngày 02/11/2017 . Trong tháng 02/2022 Phạm Thế H thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại huyện Ng, tỉnh B nên ngày 23/8/2022 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Ng, tỉnh B khởi tố bị can về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Thành phố B từ ngày 14/01/2023 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Anh Lê Quốc Ngh; sinh năm 1977.

ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 8B, phường Ph, Thành phố B, tỉnh B; nghề Nghiệp: Kinh doanh.

Vắng mặt, đã có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Tiến Th, sinh năm 1996.

ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm Ch, xã Ph, Thành phố Th, tỉnh Thái Nguyên;

nghề Ngh: Buôn bán.

Vắng mặt, đã có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do quen biết từ trước, ngày 28/02/2022, Phạm Thế H gọi điện thoại cho chị Trương Thị C (tên gọi khác là C1), sinh năm 1978, trú tại tổ 12, phường Ph, Thành phố B, tỉnh B để hỏi chỗ thuê xe ô tô tự lái thì được chị C giới thiệu và cho H số điện thoại của anh Lê Quốc Ngh(Sinh năm 1977, trú tại tổ 8B, phường Ph, Thành phố B, tỉnh B) có cửa hàng Việt Phong cho thuê xe ô tô tự lái. Sau đó, Phạm Thế H gọi điện thoại cho anh Ngh hỏi về việc thuê xe, H giới thiệu là người quen của chị C và trao đổi với anh Ngh về việc thuê xe ô tô tự lái, hẹn hôm sau đến thuê xe. Khoảng 09 giờ ngày 01/3/2022, Phạm Thế H đến cửa hàng Việt Phong thuộc tổ 8B, phường Ph, Thành phố B gặp anh Lê Quốc Ngh để thuê xe ô tô tự lái. H thỏa thuận với anh Ngh thuê xe ô tô tự lái khoảng 01 tuần với giá 600.000 đồng/01 ngày (chỉ thỏa thuận bằng miệng, không làm hợp đồng bằng văn bản). Sau khi thỏa thuận, anh Ngh giao cho H chiếc xe ô tô nhãn hiệu HUYNDAI GETZ, màu sơn bạc, biển kiểm soát 97A - xxxxx kèm giấy đăng ký xe (bản phô tô công chứng), giấy chứng nhận bảo hiểm và đăng kiểm xe ô tô (bản gốc). Sau khi thuê được xe ô tô, H điều khiển xe đến Th phố Th, tỉnh Thái Nguyên để giải quyết việc cá nhân. Khi đến Th phố Th, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên H đã nảy sinh ý định mang chiếc xe ô tô biển kiểm soát 97A – xxxxx đi bán lấy tiền. Cùng ngày, H điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 97A - xxxxx đến nhà anh Vũ Tiến Th (sinh năm 1996, trú tại xóm Ch, xã Ph, Thành phố Th, tỉnh Thái Nguyên, là người H quen qua mạng xã hội và đã có sự trao đổi qua tin nhắn). Khi gặp anh Th, H nói xe ô tô biển kiểm soát 97A – xxxxx là của H rồi thỏa thuận bán chiếc xe ô tô cho anh Th với giá 55.000.000đ (Năm mươi năm triệu đồng). Anh Th đã chuyển vào tài khoản Ngân hàng Agribank của H số tiền 38.000.000đ (Ba mươi tám triệu đồng) và đưa cho H 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) tiền mặt. Hai bên thỏa thuận mấy hôm sau H sẽ cầm bản gốc giấy đăng ký xe xuống cho anh Th và anh Th sẽ đưa thêm cho H 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), sau đó H đưa cho anh Th giữ căn cước công dân và giấy phép lái xe của H. Sau khi bán xe, H đã tiêu xài cá nhân hết số tiền trên và bỏ trốn khỏi địa phương. Khi hết thời hạn cho thuê xe, anh Lê Quốc Ngh không thấy H mang xe về trả, gọi điện thoại cho H thì không liên lạc được nên ngày 11/3/2022, anh Lê Quốc Ngh làm đơn đề nghị Cơ quan Công an giải quyết.

Ngày 29/3/2022, anh Lê Quốc Ngh đã liên hệ với anh Vũ Tiến Th chuộc lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 97A- xxxxx với giá 71.000.000 đ (Bảy mươi mốt triệu đồng). Anh Th đã giao cho anh Ngh chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz biển kiểm soát 97A - xxxxx kèm theo giấy tờ của xe và căn cước công dân, giấy phép lái xe của Phạm Thế H.

Tại Kết luận định giá tài sản số 72/KL-HĐĐGTSTXTTTHS ngày 17/4/2022 Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự Th phố B kết luận tại thời điểm bị chiếm đoạt chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz, biển kiểm soát 97A - xxxxx có giá trị: 135.000.000đ (Một trăm ba mươi năm triệu đồng).

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý :

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz, biển kiểm soát 97A – xxxxx sau khi Phạm Thế H bán cho Vũ Tiến Th đã được anh Lê Quốc Ngh chuộc lại từ Vũ Tiến Th, xét thấy việc trả lại tài sản không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên Cơ quan CSĐT Công an Th phố B đã trả lại cho anh Lê Quốc Ngh là đúng quy định;

Đối với 01 (một) căn cước công dân, 01 (một) giấy phép lái xe đều mang tên Phạm Thế H do anh Lê Quốc Ngh giao nộp đã được chuyển đến tạm giữ tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự Th phố B.

* Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Quốc Ngh yêu cầu bị cáo Phạm Thế H bồi thường số tiền anh Ngh đã bỏ ra để chuộc chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz biển kiểm soát 97A - xxxxx là 71.000.000 đ (Bảy mươi mốt triệu đồng).

Trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo Phạm Thế H đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo cơ bản phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 24/CT - VKSTP ngày 03 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B đã truy tố bị cáo Phạm Thế H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng … thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

…… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Tuyên bố bị cáo Phạm Thế H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Thế H từ 03 đến 04 năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 14/01/2023.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584;

585; 586; 589; 357 và 468 của Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Phạm Thế H phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Lê Quốc Nghvới số tiền là 71.000.000 đồng (Bảy mươi mốt triệu đồng).

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Thế H 01 (một) căn cước công dân, 01 (một) giấy phép lái xe đều mang tên Phạm Thế H.

Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự có giá ngạch theo quy định.

Bị cáo Phạm Thế H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức hình phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, bị cáo không có ý kiến gì, chỉ xin HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, trong đơn nêu rõ yêu cầu bị cáo Phạm Thế H phải bồi thường số tiền 71.000.000 đ (Bảy mươi mốt triệu đồng) là tiền bị hại đã bỏ ra để chuộc lại chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz biển kiểm soát 97A - xxxxx. Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, trong đơn nêu rõ không có yêu cầu, đề nghị gì về trách nhiệm dân sự. Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát Thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Phạm Thế H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, cơ bản phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án do vậy có căn cứ xác định:

Ngày 01/3/2022, tại tổ 8B, phường Ph, Thành phố B, tỉnh B, Phạm Thế H có hành vi thuê chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz, biển kiểm soát 97A – xxxxx, trị giá 135.000.000 đồng của anh Lê Quốc Ngh, với mục đích làm phương tiện đi Thành phố Thái Nguyên giải quyết việc cá nhân. Hai bên thỏa thuận thời gian thuê khoảng 01 tuần. Sau khi thuê được xe, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên H đã tự ý bán chiếc xe ô tô trên cho anh Vũ Tiến Th, trú tại xóm Ch, xã Ph, Thành phố Th, tỉnh Thái Nguyên được số tiền 45.000.000 đồng. Sau đó, H đã tiêu xài cá nhân hết số tiền trên và bỏ đi khỏi địa phương. Khi hết thời hạn cho thuê xe, anh Lê Quốc Ngh không thấy H mang xe về trả, gọi điện thoại cho H thì không liên lạc được nên ngày 11/3/2022, anh Lê Quốc Ngh làm đơn đề nghị Cơ quan Công an giải quyết.

Hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B đã truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3 Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương nên cần xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự.

[4] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu. Ngày 05/11/2013, bị TAND huyện Ngân Sơn, tỉnh B xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “trộm cắp tài sản”. Ngày 02/11/2017, bị Công an phường H, Thành phố B, tỉnh B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “uống rượu bia say gây mất trật tự công cộng”, mức phạt 750.000 đồng, đã nộp phạt ngày 02/11/2017. Ngày 15/7/2020, Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt Phạm Thế H 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; ngày 27/01/2022 chấp hành án xong, chưa được xóa án tích thì ngày 01/3/2022 lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu ở trên. Ngoài ra, trong tháng 02/2022 Phạm Thế H thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại huyện Ngân Sơn, tỉnh B nên ngày 23/8/2022 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh B khởi tố bị can về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự. Qua đó cho thấy bị cáo là đối tượng coi thường pháp luật, khó giáo dục cải tạo do vậy cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối mới đảm bảo răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 15/7/2020, Phạm Thế H bị Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 18 tháng cảo tại không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 27/01/2022, chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích thì ngày 01/3/2022 lại thực hiện hành vi phạm tội, nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo có bác ruột là ông Phạm Trọng Ngh là Liệt sĩ, do vậy còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần áp dụng một mức hình phạt tù nghiêm khắc đối với bị cáo trong một khoảng thời gian phù hợp mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung cho xã hội.

[6 Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hiện nay bị cáo làm lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 175 Bộ luật hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền bị hại đã bỏ ra để chuộc lại chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz biển kiểm soát 97A - xxxxx là 71.000.000 đ (Bảy mươi mốt triệu đồng). Bị cáo nhất trí bồi thường cho bị hại số tiền trên, tuy nhiên chưa bồi thường cho bị hại được khoản nào.

Xét thấy yêu cầu của bị hại là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, đồng thời tại phiên tòa bị cáo cũng nhất trí bồi thường theo yêu cầu của bị hại do vậy cần chấp nhận yêu cầu của bị hại, buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho bị hại anh Lê Quốc Ngh số tiền là 71.000.000 đ (Bảy mươi mốt triệu đồng).

[8 Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) căn cước công dân , 01 (một) giấy phép lái xe đều mang tên Phạm Thế H, là giấy tờ tùy thân của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[9 Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với Vũ Tiến Th, là người đã mua xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz, biển kiểm soát 97A – xxxxx với Phạm Thế H, tuy nhiên anh Th không biết đó là xe ô tô do H đi thuê nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh Th là đúng quy định.

Quá trình điều tra vụ án Phạm Thế H khai đã bán chiếc xe ô tô biển kiểm soát 97A – xxxxx cho Th được số tiền 45.000.000 đồng (Bốn mươi năm triệu đồng) và hẹn khi nào H giao bản gốc giấy đăng ký xe cho anh Th thì anh Th đưa thêm 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Tuy nhiên, anh Vũ Tiến Th khai đã thỏa thuận mua xe ô tô trên với giá 78.000.000 đồng (Bảy mươi tám triệu đồng), Th đã đưa cho H số tiền 65.000.000 đồng (Sáu mươi năm triệu đồng) và hẹn sau khi H giao bản gốc giấy đăng ký xe cho anh Th thì sẽ trả số tiền còn lại. Qua sao kê tài khoản tài khoản của Phạm Thế H tại Ngân hàng Agribank xác định ngày 01/3/2022 Vũ Tiến Th chuyển tiền cho Phạm Thế H số tiền 38.000.000 đồng (Ba mươi tám triệu đồng) với nội dung “Vu Tien Thanh chuyen tien”. Lời khai của H và Th mâu thuẫn, chênh lệch về số tiền mua bán xe ô tô, tuy nhiên nội dung này không ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của bị cáo, mặt khác anh Vũ Tiến Th cũng không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên Cơ quan CSĐT Công an Thành phố B không xem xét, làm rõ là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thế H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Điều luật áp dụng và hình phạt Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175 ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Thế H 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 14/01/2023.

3.Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589, 357 và 468 của Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Phạm Thế H phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Lê Quốc Ngh số tiền là 71.000.000 đồng (Bảy mươi mốt triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong khoản tiền nêu trên, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự.

4.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Thế H 01 (Một) Căn cước công dân số 0060930xxxxx, ngày cấp 10/5/2021 mang tên Phạm Thế H và 01 (Một) Giấy phép lái xe số 0602080xxxxx, ngày cấp 15/8/2020 mang tên Phạm Thế H.

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Th phố B và Chi cục Thi hành án dân sự Th phố B).

5.Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Bị cáo Phạm Thế H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 3.550.000 đồng (Ba triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự có giá ngạch.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 51/2023/HS-ST

Số hiệu:51/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về