Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 436/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 436/2022/HS-PT NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 346/HSPT ngày 05/9/2022 đối với bị cáo Đỗ Thành L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 131/2022/HS-ST ngày 21/7/2022 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H.

Bị cáo có kháng cáo:

Đỗ Thành L; sinh năm 2001, tại Thành phố H; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 109/8, Tổ 16, Khu phố 1, phường Tân Thới H, Quận X, Thành phố H; Chỗ ở hiện nay: Nhà không số, Tổ 22, Khu phố 3A, phường Tân Thới H, Quận X, Thành phố H.; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/X; Nghề ngH: Không; Con ông Đỗ Xuân T và bà Vũ Thị Kim X; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định 01/2016/QĐ-TA ngày 30/8/2017 của Tòa án nhân dân Quận X áp dụng 18 tháng đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi Trộm cắp tài sản; Bị bắt và tạm giam ngày 04/10/2021; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại (Không kháng cáo):

1. Ông Đặng Tùng L, sinh năm 1994;

Nơi cư trú, sinh sống: Số 3, Đường số 4, phường L X, thành phố TĐ, Thành phố H (Vắng mặt).

2. Ông Trương Minh H, sinh năm 2000;

Nơi cư trú, sinh sống: Ấp 5, xã Bình M, huyện C, Thành phố H (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08 tháng 02 năm 2021, tại tiệm cầm đồ L L, tại địa chỉ số 166 Tổ 18, Khu phố 1, phường Tân Thới H, Quận X, Đỗ Thành L cho anh Trương Minh H vay 8.000.000 đồng với lãi suất 330.000 đồng/tuần, thu trước 200.000 đồng tiền lãi, thực tế L đưa cho anh Minh H số tiền 7.800.000 đồng. Để đảm bảo khoản vay, anh Trương Minh H giao xe mô tô biển số 49H1-X cho L để sử dụng, khi nào anh Minh H trả tiền thì L trả lại xe cho Trương Minh H, L không được quyền bán, chuyển quyền quản lý xe mô tô biển số 49H1-X cho người khác. Đến ngày 28 tháng 02 năm 2021, thông qua Lê Đình T chưa rõ lai lịch giới thiệu, mặc dù không được sự đồng ý của anh Trương Minh H nhưng Đỗ Thành L đã cầm cố xe mô tô biển số 49H1-X cho Nguyễn M H tại địa chỉ số 47/23/3/1, Tổ 4, Khu phố 7, phường Tân Chánh H, Quận X với giá 10.000.000 đồng để lấy tiền tiêu xài cá nhân, tiền lãi cầm cố L phải trả khi chuộc lại xe mô tô biển số 49H1-X là 1.000.000 đồng. Đến khoảng 08 giờ ngày 04 tháng 3 năm 2021, L và T đến nhà của M H tại địa chỉ số 15/7 Khu phố 1A, phường Đông Hưng Thuận, Quận X. Tại đây, L thỏa thuận bán xe mô tô biển số 49H1-X cho M H với giá 15.000.000 đồng, trong đó, M H trừ đi 10.000.000 đồng là tiền cầm cố xe mô tô biển số 49H1-X đã đưa cho L từ trước, trừ 1.000.000 đồng là tiền lãi cầm cố xe mô tô biển số 49H1 X, M H đưa cho T số tiền 1.500.000 đồng là tiền công môi giới bán xe giữa L và M H, còn lại M H đưa cho L số tiền 2.500.000 đồng, việc mua bán xe nêu trên có lập hợp đồng mua bán bằng 01 Giấy bán xe mô tô đề ngày 04/3/2021. Khi bán xe cho M H, L nói dối xe mô tô biển số 49H1-X là xe của L mua của người khác nhưng chưa sang tên chủ sở hữu và nói dối giấy đăng ký xe mô tô biển số 49H1-X đang cầm cố tại tiệm cầm đồ F88, khi nào chuộc giấy tờ xe mô tô nêu trên thì L và M H sẽ tính thêm tiền bán xe. Tin lời L, Nguyễn M H đồng ý mua xe mô tô biển số 49H1-X của L và bán lại xe mô tô biển số 49H1 X cho Nguyễn Duy L với giá 30.000.000 đồng nhưng do giấy tờ xe đang bị L cầm cố nên M H thỏa thuận nhận trước của L số tiền 16.000.000 đồng.

Đến ngày 08 tháng 3 năm 2021, anh Trương Minh H biết thông tin Đỗ Thành L bỏ đi khỏi nơi cư trú nên anh Minh H đăng tin tìm xe mô tô biển số 49H1-X và L trên mạng xã hội Facebook. Sau khi anh Minh H đăng tin thì được L và M H liên hệ cho biết đã mua xe mô tô trên của L thì anh Minh H nói với L và M H là xe mô tô trên do Minh H là chủ sở hữu và đề nghị L cho chuộc lại xe mô tô biển số 49H1-X với giá 16.000.000 đồng thì L đồng ý. Do chỉ có số tiền 3.000.000 đồng nên để làm tin việc chuộc xe, anh Minh H viết “Giấy mượn tiền”, “Giấy cầm giấy tờ xe" mượn của L số tiền 13.000.000 đồng. Tuy nhiên, đến ngày 13/11/2021, do không có đủ số tiền 16.000.000 đồng nên anh Minh H đến nhà M H xin chuộc lại xe mô tô trên với giá 8.000.000 đồng thì M H và L không đồng ý.

Ngày 13/3/2021, sau khi phát hiện Đỗ Thành L chiếm đoạt tài sản, anh Trương Minh H đến Công an phường Đông Hưng Thuận, Quận X trình báo sự việc.

Tại Kết luận định giá tài sản số 104/KL-HĐĐGTS ngày 10/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận X kết luận: Xe mô tô biển số 49H1-X có giá trị 29.000.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 5852/KLGĐ-TT ngày 03/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TPHCM kết luận:

“Chữ ký dạng chữ viết tên “L”, chữ viết họ tên Đỗ Thành L trên tài liệu cần giảm định ký hiệu A (đã nêu ở mục II.I) so với chữ viết của Đỗ Thành L trên các tài liệu dùng làm mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 (đã nêu ở 150 mục II.2) do cùng một người viết ra.

Chữ ký, chữ viết họ tên Nguyễn M H trên tài liệu cần giám định ký hiệu A (đã nêu ở mục II.1) so với chữ ký, chữ viết của Nguyễn M H trong các tài liệu dùng làm mẫu so sánh ký hiệu M3, M4 (đã nêu ở mục II.2) do cùng một người ký và viết ra. " Ngoài ra, quá trình điều tra xác định được: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 04 tháng 3 năm 2021, tại nhà số 15/7 Khu phố 1A, phường Đông Hưng Thuận, Quận X của M H, L giới thiệu cho anh Đặng Tùng L mua 01 xe mô tô biển số 60B9-X của M H với giá 21.000.000 đồng. Xe mô tô biển số 60B9-X do M H mua của ông Trần Văn H nhưng chưa sang tên chủ sở hữu. Tuy nhiên, do xe mô tô biển số 60B9-X đang bị cầm cố tại tiệm cầm đồ nên anh L đưa cho L 21.000.000 đồng để nhờ L đi cùng M H và Trần Đức M đi chuộc xe và mang xe mô tô biển số 60B9-X về cho anh L. Sau khi nhận được số tiền 21.000.000 đồng, L đưa cho M H số tiền 1.000.000 đồng để M H đưa tiền cho Nguyễn Minh H anh trai của M H. Sau đó, M H điều khiển xe mô tô chưa rõ biển số chở L, còn M điều khiển xe mô tô chưa rõ biển số đi một mình đến tiệm cầm đồ để chuộc xe mô tô biển số 60B9-X. Khi đi đến trước cửa hàng tạp hóa tại địa chỉ số 111/2 đường Quốc lộ 1A, Khu phố 2A, phường Tân Thới H. Quận X, L nói M H dừng xe mô tô để L đi vào cửa hàng tạp hóa mua nước uống, lúc này L nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng của anh L nên L nhờ anh M chở, còn M H điều khiển xe mô tô đi một mình phía trước. Khi đến khu vực cầu vượt Tân Thới H, L bảo M rẽ vào đường Trương Thị Hoa, phường Tân Thới H, Quận X và dùng số tiền chiếm đoạt được nêu trên mua 01 xe mô tô biển số 59Y1-477.01 của Nguyễn Quang Minh Quân với giá 14.000.000 đồng. Sau đó, L nói dối với M là L đi đổ xăng xe mô tô biển số 59Y1 477.01 mới mua được nhưng thực chất L điều khiển xe mô tô biển số 59Y1 477.01 tẩu thoát. Sau đó, L bán xe mô tô biển số 59Y1-477.01 cho người khác chưa rõ lai lịch với giá 11.000.000 đồng để lấy tiền tiêu xài.

Cùng ngày 04/3/2022, sau khi phát hiện Đỗ Thành L chiếm đoạt tài sản, anh Đặng Tùng L đến Công an phường Tân Thới H, Quận X trình báo sự việc. Đến ngày 04/10/2021, L đến Công an phường Tân Thới H, Quận X đầu thú. Đến ngày 07/10/2021, L bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X bắt tạm giam.

Vật chứng và xử lý vật chứng:

- 01 Hợp đồng mua bán xe mô tô giữa Công ty TNHH Hiếu Thành P và Trương Minh H; 01 Giấy bán xe mô tô đề ngày 04/3/2021 giữa Đỗ Thành L và Nguyễn M H và 01 Giấy mượn tiền, cầm giấy tờ xe không ghi ngày giữa Trương Minh H và Nguyễn Duy L. (Đã kèm theo hồ sơ) - 05 Tờ giấy A4 là thông tin đăng tin mạng xã hội, thông tin của Đỗ Thành L do anh Trương Minh H cung cấp. (Đã kèm theo hồ sơ).

- Thu giữ của ông Nguyễn Bình L, cha của anh Nguyễn M H: 01 xe mô tô biển số 49H1-X, số khung: MH8DL11AZJJ179921, số máy: CGAl- ID179961, qua xác minh do Trương Minh H đứng tên chủ sở hữu.

- Thu giữ của anh Nguyễn Minh H: Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam:

1.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại Đặng Tùng L yêu cầu L bồi thường số tiền 21.000.000 đồng. Tuy nhiên, L chưa bồi thường cho bị hại L.

- Đỗ Thành L yêu cầu Trương Minh H trả số tiền 8.000.000 đồng mà Minh H đã vay của L, không yêu cầu trả tiền lãi. Đến nay Minh H vẫn chưa trả. Trương Minh H yêu cầu nhận lại xe mô tô biển số 49H1-X, không yêu cầu gì thêm. Người liên quan là Nguyễn M H yêu cầu L bồi thường số tiền X.500.000 đồng đã mua xe mô tô biển số 49H1-X. Nguyễn Duy L yêu cầu M H bồi thường số tiền 16.000.000 đồng. Tuy nhiên, L chưa trả cho M H X.500.000 đồng, M H chưa trả cho L số tiền 16.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 131/2022/HSST ngày 21/7/2022 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H:

Tuyên bố bị cáo Đỗ Thành L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Đỗ Thành L: 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn còn giải quyết về trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/8/2022, bị cáo Đỗ Thành L có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H sau khi tóm tắt hành vi phạm tội, hậu quả tội phạm mà bị cáo Đỗ Thành L thực hiện đã nhận định:

Có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm đoạt tài sản”. Về hình phạt: Mức án mà Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo là phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Thành L khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân Quận X, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận X, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Ngày 08/02/2021, tại địa chỉ số 166, Tổ 18, Khu phố 1, phường Tân Thới H, Quận X, bị cáo Đỗ Thành L sau khi nhận cầm xe mô tô biển số 49H1 X có giá trị 29.000.000 đồng của anh Trương Minh H, bị cáo đã bán xe mô tô biển số 49H1-X cho Nguyễn M H với giá 15.000.000 đồng lấy tiền tiêu xài. Ngày 04/3/2021, anh Đặng Tùng L đưa số tiền 21.000.000 đồng cho bị cáo để đi chuộc xe mô tô biển số 60B9-X mà anh L đã thỏa thuận mua của M H do xe mô tô trên đang bị cầm cố tại tiệm cầm đồ. Sau khi nhận tiền, bị cáo không chuộc xe mà chiếm đoạt số tiền 21.000.000 đồng của anh L. Tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt là 50.000.000 đồng. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, tang vật thu giữ, lời khai của bị hại và các tài liệu khác mà cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo Đỗ Thành L đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Như vậy, Toà án nhân dân Quận X xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, phù hợp với quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Đỗ Thành L kháng cáo xin được giảm mức hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo L giữ nguyên nội dung kháng cáo. Kháng cáo của bị cáo L làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Thành L không xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp với quy định của pháp luật.

Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Thành L, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Đỗ Thành L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Thành L; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 131/2022/HSST, ngày 21/7/2022 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H.

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thành L: 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/10/2021.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 436/2022/HS-PT

Số hiệu:436/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về