Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 35/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 35/2023/HS-ST NGÀY 24/04/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh V mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 31/2023/HSST ngày 31 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Đặng Ngọc S, sinh ngày 13/5/1992; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thôn Đ, xã S, huyện L, tỉnh V; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá:

09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn H, sinh năm 1953 và bà Lưu Thị Đ, sinh năm 1955; vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1994; có 02 con: con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh 2017; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Công ty cổ phần dịch vụ giao hàng nhanh, Đại diện theo pháp luật: Ông Lương Duy H, sinh năm 1988- Chức vụ: tổng giám đốc; địa chỉ: 360C Bến Vân Đ, phường 01, quận 04, thành phố Hồ Chí Minh. Đai diện theo ủy quyền anh Phạm Văn Q, sinh năm 1994; trú tai; TDP Đ, phường K, thành phố V, tỉnh V- Chức vụ quản lý khu vực huyện Lập Thạch (vắng mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Hồ Văn S, sinh năm 1995; trú tại: 230 V, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt). Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1994; trú tại: thôn Đ, xã S, huyện L, tỉnh V (có mặt).

-Người làm chứng: Anh Bùi Thành C, sinh năm 1989; trú tại: thôn V, xã Đ, huyện L, tỉnh V (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 27/8/2022, Đặng Ngọc S, sinh năm 1992 ở thôn Đ, xã S, huyện L, tỉnh V ký hợp đồng dịch vụ với Công ty cổ phần dịch vụ giao hàng nhanh - chi nhánh huyện L (gọi tắt là Bưu cục L), địa chỉ tại tổ dân phố V, Thị trấn L, huyện L, tỉnh V. Công việc của S là: vào 07 giờ 30 phút sáng hàng ngày đến Bưu cục L nhận các đơn hàng để đi giao hàng cho khách, nếu đơn hàng nào khách hàng yêu cầu thu tiền hộ thì S thu tiền và nộp về cho Bưu cục L vào 07 giờ 30 phút sáng ngày hôm sau, với mỗi đơn hàng giao thành công thì S được trả công từ 6.000đ đến 7.000đ.

Sáng ngày 18/9/2022, Bưu cục L giao cho S một số đơn hàng để đi giao cho khách hàng, trong đó có đơn hàng là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi GT Neo của người gửi là anh Hồ Văn S SN 1995 ở SN 24-25 Đinh Thị H, phường A, quận S, Thành phố Đà Nẵng cho người nhận hàng là: anh Bùi Thành C ở thôn V, xã Đ, huyện L và thu hộ số tiền là 5.938.000đ. Khoảng 13 giờ cùng ngày, S giao thành công đơn hàng trên cho anh C, anh C đã bóc vỏ hộp kiểm tra hàng đúng như đã đặt và nhận hàng rồi đưa cho S số tiền 5.938.000đ. Lúc này, S nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trên để tiêu sài cá nhân nên xin lại anh C vỏ hộp của đơn hàng trên. Sau đó, S vào ứng dụng giao hàng nhanh của Công ty tích vào mục “Giao hàng thất bại, khách hàng không nhận”, rồi về nhà lấy 01 điện thoại OPPO cũ hỏng của S để vào trong vỏ hộp trên dán kín lại. Sáng ngày hôm sau, S đem chiếc hộp trên đến Bưu cục L nộp cho anh Lê Văn T SN 1993 ở xã N, huyện L là nhân viên xử lý đơn hàng của Bưu cục L và nói khách hàng từ chối nhận. Sau đó, Bưu cục L đã gửi trả lại đơn hàng trên cho ông Hồ Văn S. Đến ngày 21/9/2022, ông Hồ Văn S liên hệ với Công ty cổ phần Giao hàng nhanh phản ánh về việc Công ty hoàn sai sản phẩm. Cùng ngày 21/9/2022, Công ty cổ phần giao hàng nhanh chi nhánh huyện L đã có đơn trình báo Cơ quan công an.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Đặng Ngọc S đã thừa nhận rõ toàn bộ hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt số tiền 5.938.000đ của Công ty cổ phần giao hàng nhanh chi nhánh huyện L như nội dung nêu trên.

Đối với anh Bùi Thành C là người đã cho Đặng Ngọc S vỏ hộp của chiếc điện thoại nhưng S không nói và anh C không biết việc S sử dụng để gian dối chiếm đoạt tài sản nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

* Vật chứng vụ án:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu xanh của S sử dụng làm phương tiện phạm tội cần tịch thu bán xung quỹ Nhà nước.

+ 01 hộp cartong không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

*Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Đặng Ngọc S và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho anh Hồ Văn S số tiền 5.938.000đ, anh Hồ Văn S đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu đề nghị gì.

Quá trình điều tra, bị cáo Đặng Ngọc S thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số: 34/CT-VKS ngày 22 tháng 03 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch truy tố bị cáo Đặng Ngọc S về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch luận tội đối với bị cáo Đặng Ngọc S. Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175, điểm b,i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 60 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đặng Ngọc S, xử phạt: Bị cáo S từ 09 tháng đến 11 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 18 tháng đến 22 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch đã truy tố và thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo nhất trí với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo Đặng Ngọc S nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án,căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Đặng Ngọc S đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như sau:

Đặng Ngọc S, sinh năm 1992 trú tại thôn Đ, xã S, huyện L là nhân viên giao hàng của Công ty cổ phần Giao hàng nhanh chi nhánh huyện L, tỉnh V. Ngày 18/9/2022, sau khi S nhận hàng của Công ty và giao hàng thành công cho anh Bùi Thành C ở xã Đ, huyện L 01 chiếc điện thoại, anh C nhận điện thoại và đưa cho S số tiền 5.938.000đ, sau đó S không nộp tiền về Công ty mà dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt số tiền trên tiêu sài cá nhân hết.

Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo, lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập theo trình tự của Bộ luật tố tụng hình sự được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Hành vi nêu trên của bị cáo Đặng Ngọc S đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Điểm a Khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000đ đến dưới 50.000.000đ…, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) …nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối… để chiếm đoạt tài sản đó...” Do đó bản cáo trạng số: 34 /CT-VKS ngày 22/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh V đã truy tố bị cáo Đặng Ngọc Svề tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo còn trẻ, không chịu tu dưỡng rèn luyện, để có tiền tiêu sài cá nhân đã có hành vi chiếm đoạt tài sản, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Đối chiếu với yêu cầu phòng chống tội phạm ở địa phương thấy cần xử phạt bị cáo nghiêm minh tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo, có như vậy mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe những kẻ khác góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm.

[4] Về nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết xem xét giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo cùng gia đình đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả. Nên bị cáo được hưởng tình tiết quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nơi cư trú ổn định, hành vi phạm tội của bị cáo chưa đến mức phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù với mức án tương xứng với hành vi phạm tội và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo được cải tạo tại địa phương, ấn định thời gian thử thách cho bị cáo cũng đủ điều kiện để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đ đến 100.000.000đ”. Tuy nhiên, bị cáo không có công việc ổn định, không có tài sản, thu nhập gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Đặng Ngọc S và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho anh Hồ Văn S số tiền 5.938.000đ, anh Hồ Văn S đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

-Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu xanh của S sử dụng làm phương tiện phạm tội cần tịch thu bán xung quỹ Nhà nước.

-01 hộp cartong không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Đặng Ngọc S phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Ngọc S phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 175, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 60 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đặng Ngọc S, xử phạt: Bị cáo Đặng Ngọc S 10 ( mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một ) năm 08 (tám) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Đặng Ngọc S cho Uỷ ban nhân dân xã S Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh V giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.Trong trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

-Tịch thu bán xung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ đã cũ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu xanh đã cũ (IMEI): 868931048367079.

-Tịch thu tiêu hủy 01 hộp cartong.

(các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch và Chi cục thi hành án huyện Lập Thạch ).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án bị cáo Đặng Ngọc S phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để xét xử phúc thẩm. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết tại Uỷ ban nhân dân nơi cư trú của người vắng mặt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 35/2023/HS-ST

Số hiệu:35/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về