Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 33/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 33/2023/HS-ST NGÀY 17/02/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 17 tháng 02 năm 2023, tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2023/TLST - HS ngày ngày 17 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2023/QĐXXST-HS ngày 03/02/2023 đối với bị cáo:

Vì Văn L - tên gọi khác: không; giới tính: nam; sinh ngày 01/01/1997 tại M, S; nơi cư trú: Bản Á, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; con ông: Vì Văn Ứ; con bà: Đinh Thị M; vợ: Lường Thị P; có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt truy nã ngày 04/11/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa: ông Phạm Thành D là trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Ninh (có mặt)

* Bị hại: anh Nguyễn Văn H - sinh năm 1992; nơi cư trú: thôn L, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình ( có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: anh Lê Duy H1 - sinh năm 1979; nơi cư trú: số nhà C, tổ F, khu B, phường Q, Tp C, tỉnh Quảng Ninh (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vì Văn L được anh Nguyễn Văn H thuê làm phụ hồ xây dựng tại Trường tiểu họ c V, thuộc tổ A, khu H, phường C, thành phố C. Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/11/2020, tại công trường xây dựng, L hỏi vay tiền và mượn xe mô tô của anh H đi mua thuốc đau bụng. Anh H đồng ý, đưa chìa khóa xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát (BKS) 17B5-xxxxx và bảo L lấy tiền trong ví của anh, để ở cốp xe đi mua thuốc (có khoảng 250.000 đồng). L đi đến hiệu thuốc (không nhớ tên, địa chỉ) để mua thuốc và lấy tiền trong ví của anh L để trả tiền mua thuốc thì thấy giấy đăng ký của xe và chứng minh thư của anh H nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. L đem xe đến cửa hàng mua bán xe máy cũ “Uy Hư ng” của anh Lê Duy H1 bán với giá 5.000.000 đồng. Đến ngày 01/12/2020, L gọi điện thông báo cho anh H biết rồi tắt máy điện thoại và bỏ trốn. Ngày 07/12/2020, anh H đi tìm thì thấy xe tại cửa hàng của anh H1 nên đã đến trình báo Công an. Ngày 08/12/2020, anh H1 giao nộp chiếc xe trên cùng giấy đăng ký xe và chứng minh thư của anh H cho Công an phường C. Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô và giấy đăng ký, chứng minh thư cho anh Nguyễn Văn H. Ngày 04/11/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M, tỉnh S bắt được Vì Văn L theo quyết định truy nã.

Tại Kết luận định giá tài sản số 87/KL - HĐĐGTX ngày 24/12/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố C), kết luận: xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát (BKS) 17B5-xxxxx trị giá 12.000.000 đồng.

Bị cáo Vì Văn L khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung vụ án và khai: Khi bán xe, L đã nói với anh H1 mình tên là H và xe mô tô là của L và đưa giấy đăng ký xe, chứng minh thư cho anh H1. Sau đó, L thay số điện thoại và bỏ trốn. Số tiền bán xe L đã ăn tiêu hết.

Các anh Nguyễn Văn H, Lê Duy H1 có lời khai phù hợp nội dung vụ án và không yêu cầu L bồi thường dân sự, đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Vì Văn L.

Cáo trạng số 17/CT - VKSCP ngày 13 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C đã truy tố Vì Văn L về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175, điểm i,s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Vì Văn L từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 04/11/2022.

Bị cáo không tranh luận gì.

Người bảo chữa đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xét xử bị cáo mức án thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, miễn án phí cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

* Về tố tụng hình sự:

[1] Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu bồi thường.

Sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên việc phiên tòa xét xử vắng mặt họ là đúng quy định tại điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bảo đảm các quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng, không có quyết định tố tụng, hành vi tố tụng nào bị khiếu nại. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

* Về nội dung vụ án [1] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vì Văn L có lời khai nhận tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của người bị hại, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, biên bản thu giữ vật chứng và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/11/2020, tại tổ A, khu H, phường C, thành phố C, Vì Văn L đã mượn chiếc xe mô tô BKS 17B5-xxxxx trị giá 12.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn H để sử dụng, sau đó đem bán được 5.000.000 đồng ăn tiêu cá nhân hết và bỏ trốn. Hành vi này đã phạm tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”quy định tại điểm a khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự.

Điều 175 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;’’ [2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, là quyền được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là thanh niên trẻ, có sức khỏe nhưng lười lao động, ham hưởng thụ nên đã lợi dụng sự tin tưởng của người bị hại khi giao tài sản là xe mô tô cho bị cáo mượn để sử dụng rồi bán chiếc xe để chiếm đoạt tiền sử dụng ăn tiêu. Sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra, cơ quan điều tra phải truy nã bị cáo. Vì vậy cần xử lý bị cáo bằng mức án nghiêm khắc để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung

[3] Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không có tình tiết tăng nặng - Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đàu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cho hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i,s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo nên áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung : xét bị cáo không có tài sản thu nhập nên không cần thiết phải áp dụng thêm hình phạt tiền bổ sung.

[5] Về vật chứng của vụ án: Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, không ai có ý kiến gì nên không xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn nên miễn án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Vì Vă n L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Vì Văn L 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 04/11/2022.

Căn cứ khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 33/2023/HS-ST

Số hiệu:33/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về