Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 240/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 240/2023/HS-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 31 tháng 8 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 211/2023/TLST - HS ngày 27 tháng 7 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Âu Đình T , sinh ngày 29 tháng 4 năm 1987; Tại: B; Nơi ĐKHKTT: Thôn Bản T, xã H, huyện C, tỉnh B; Nơi cư trú: Số 48, ngõ 65 K, phường T, quận T, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Âu Đình H và bà: Nguyễn Thị H (đã chết); Vợ: Trần Thị Hải Y; Con: Có 02 con: Con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không.

Danh chỉ bản số 291 do Công an quận Đống Đa lập ngày 04/5/2023.

Bị cáo đầu thú; Bị tạm giữ ngày 07/8/2020, Hủy bỏ tạm giữ ngày 16/8/2020; Cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Lê Thế H, sinh năm 1990. Địa chỉ: Số 10, ngõ 298 T, phường N, quận Đống Đa, Hà Nội; Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công an phường N, quận Đống Đa, Hà Nội nhận được đơn tố giác tội phạm của anh Lê Thế H (Sinh năm: 1990; Trú tại: Số 10 ngõ 298 T, phường N, quận Đống Đa, Hà Nội), chủ cửa hàng điện thoại di động Lee shop (Địa chỉ: Số 10, ngõ 298 T, phường N, quận Đống Đa, Hà Nội) về việc Âu Đình T là nhân viên giao hàng tại cửa hàng của anh H đã chiếm đoạt số tiền bán 10 (Mười) chiếc điện thoại di động của cửa hàng trị giá 213.000.000 (Hai trăm mười ba triệu) đồng. Sau đó, T đã đến cơ quan công an đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Qua điều tra xác định được:

Âu Đình T là nhân viên giao hàng tại cửa hàng điện thoại di động Lee shop của anh Lê Thế H từ năm 2017. Nhiệm vụ của T là giao hàng bán cho khách theo các đơn hàng của nhân viên bán hàng và thu tiền của khách nộp cho cửa hàng hoặc chuyển khoản cho anh H.

Ngày 22/7/2020, T mang 02 (Hai) chiếc điện thoại di động Iphone Pro max màu xanh 256Gb của cửa hàng bán cho chị Nguyễn Thị H (Sinh năm 1976, trú tại số 50 N, phường N, quận B, Hà Nội) với giá 47.000.000 (Bốn mươi bảy triệu) đồng. Chị H đã chuyển khoản số tiền trên vào tài khoản 19031218756666 mang tên Âu Đình T mở tại Ngân hàng TMCP K. Sau đó, đến ngày 23/7/2020, T đã chuyển khoản của anh Lê Thế H, số tài khoản 19130156XX mở tại Ngân hàng TMCP K số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng, vì trước đó T vẫn còn nợ số tiền 3.000.000 (Ba triệu) đồng bán máy điện thoại chưa nộp lại cho anh H.

Ngày 26/7/2020, T lấy 08 (Tám) chiếc điện thoại di động Iphone 11 Promax 64Gb để bán cho khách. Sau đó, T mang 06 chiếc điện thoại bán cho anh Nguyễn Đức N (Sinh năm 1984; Trú tại: 156 T, phường T, quận Đ, Hà Nội) với giá 123.000.000 (Một trăm hai mươi ba triệu) đồng. Anh N đã chuyển khoản cho T 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng và đưa tiền mặt 73.000.000 (Bảy mươi ba triệu) đồng cho T . Ngay sau đó, T đã chuyển khoản cho anh H 50.000.000 (Năm mươi triệu đồng) và đưa số tiền mặt 73.000.000 (Bảy mươi ba triệu) đồng trực tiếp cho anh H. Đối với 02 chiếc điện thoại còn lại T đem bán cho chị Nguyễn Thị H với giá 43.600.000 (Bốn mươi ba triệu sáu trăm nghìn) đồng.

Ngày 27/7/2023, chị H đã chuyển trả đủ tiền vào tài khoản Techcombank của Âu Đình T . Theo sao kê tài khoản ngân hàng K của T thì trước khi nhận số tiền trên, số dư trong tài khoản chỉ còn 106.626 (Một trăm linh sáu nghìn, sáu trăm hai mươi sáu nghìn) đồng. Sau đó, cùng ngày T đã chuyển khoản số tiền 20.450.000 (Hai mươi triệu bốn trăm năm mươi nghìn) đồng cho anh Nguyễn Hải Đ (Sinh năm 1996; Trú tại: 16 ngách 3/75 T H , phường T, Đống Đa, Hà Nội) để trả nợ cá nhân. Tiếp đó, trong ngày 27/7/2020 tại cửa hàng điện thoại của anh H, T đã sử dụng chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đỏ của mình chuyển khoản qua Internetbanking số tiền 23.000.000 (Hai mươi ba triệu) đồng từ tài khoản ngân hàng của T đến một tài khoản trung gian với nội dung chuyển khoản là “AUCHUONG29” để quy đổi sang điểm vào tài khoản đánh bạc trên mạng, lúc này, sau khi chuyển khoản số tiền trên, trong tài khoản ngân hàng của T chỉ còn số dư 256.626 (Hai trăm năm mươi sáu nghìn, sáu trăm hai mươi sáu) đồng. T khai đánh bạc trên mạng tại trang Web “Ku.ku711.com”, sử dụng tài khoản mang tên “AUCHUONG29” và mật khẩu “19041987”. Nội dung khi chuyển tiền vào tài khoản để đánh bạc bắt buộc phải là “AUCHUONG29” trùng với tên đăng nhập tài khoản đánh bạc của T trên trang Web thì mới được cộng điểm trong tài khoản đánh bạc. Trên trang web này có nhiều hình thức đánh bạc nhưng T đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa, tỷ lệ quy đổi là 1.000.000 (Một triệu) đồng tương đương 1.000 điểm. Do chơi rất nhiều lần đặt cửa (chẵn, lẻ) nên T không nhớ số tiền các lần đặt cược cụ thể là bao nhiêu, chỉ nhớ mỗi phiên chơi khoảng vài trăm nghìn, phiên lớn nhất khoảng 1.500.000 (Một triệu năm trăm) nghìn đồng. Hiện trang web đánh bạc này đã bị cơ quan chức năng đánh sập, không truy cập được. T nạp tiền vào tài khoản game đánh bạc bằng cách chuyển tiền từ số tài khoản 1903128756666 mang tên Âu Đình T mở tại Ngân hàng TMCP K đến các số tài khoản hiện trên giao diện của game gồm: Số tài khoản 100003987455 mang tên CHIEN SHANG KAI mở tại Ngân hàng N; Số tài khoản 19032637772015 mang tên CHEN GUO YI mở tại Ngân hàng K; Số tài khoản 672704060038959 mang tên CHEN WEI CHU (T không nhớ mở tại Ngân hàng nào). Sau khi T chuyển tiền vào các số tài khoản trên thì tài khoản game đánh bạc của T sẽ được cộng điểm theo tỷ lệ quy đổi tương ứng 1.000.000 (Một triệu) đồng = 1.000 điểm.

Do T đã sử dụng tiền của khách hàng để đánh bạc bị thua hết tiền và do điều kiện kinh tế khó khăn nên T không có tiền trả lại cho anh H. Anh H đã trình báo sự việc với cơ quan công an. T đã đến cơ quan công an đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đến nay, T đã thỏa thuận, khắc phục hậu quả, trả hết tiền hàng đã nhận của khách cho người bị hại là anh Lê Thế H. Anh H không có yêu cầu bồi thường dân sự và đề nghị miễn giảm trách nhiệm hình sự cho T .

Đối với chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu đỏ tạm giữ của Âu Đình T đã sử dụng để chuyển tiền và đăng nhập tài khoản tham gia đánh bạc trên trang mạng, cơ quan điều tra chuyển Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa để giải quyêt theo thẩm quyền.

Đối với hành vi đánh bạc của Âu Đình T , qua điều tra không xác định được số tiền đánh bạc từng lần cụ thể là bao nhiêu nên không đủ căn cứ xử lý hình sự. Mặt khác, thời gian xảy ra sự việc đã lâu, hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, do vậy, cơ quan điều tra không xử lý.

Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách rút phần tài liệu liên quan đến các số tài khoản hiện trên giao diện của game nêu trên để tiếp tục xác minh, giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 217/CT-VKS ngày 24/7/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố Âu Đình T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Âu Đình T khai nhận hành vi như bản cáo trạng đã truy tố, bị cáo thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa giữ quyền công tố sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố nêu trên và đề nghị: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt Âu Đình T từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, hạn thử thách 24 đến 30 tháng.

Miễn hình phạt bổ sung.

Trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã khắc phục hậu quả, bị hại không có yêu cầu bồi thường dân sự nên không xem xét.

Vật chứng vụ án: Tịch thu sung công điện thoại Iphone 7 Plus, màu đỏ tạm giữ của Âu Đình T .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ và các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra - Công an quận Đống Đa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, qua xét hỏi, bị cáo Âu Đình T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với các lời khai bị cáo đã khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ. Có đủ căn cứ xác định: Âu Đình T là nhân viên giao hàng tại cửa hàng điện thoại di động Lee Shop; Địa chỉ: Số 10 ngõ 298 T, phường N, quận Đống Đa, Hà Nội của chủ cửa hàng là anh Lê Thế H (Sinhh năm 1990; Trú tại: Số 10 ngõ 298 T, phường N, quận Đống Đa, Hà Nội), sau khi giao hành và nhận tiền thanh toán của khách thì T phải trả lại cho anh H. Ngày 27/7/2020 T đã sử dụng số tiền 23.000.000 đồng nhận của khách hàng để đánh bạc bị thua không có khả năng trả lại cho anh H. Đến nay T đã bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức pháp luật đầy đủ, biết được hậu quả hành vi mình gây ra nhưng vẫn cố tình thực hiện. Lợi dụng sự tín nhiệm của chủ tài sản, bị cáo đã chiếm đoạt số tiền 23.000.000 (Hai mươi ba triệu) đồng của anh Lê Thế H để sử dụng vào mục đích đánh bạc. Do vậy, cần phải có mức hình phạt nghiêm, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và làm bài học ngăn ngừa tội phạm nói chung.

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu; Bị cáo đầu thú; Đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; Là người dân tộc thiểu số; Người bị hại đề nghị miễn giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo, để áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Bị cáo có nơi cư trú ổn định rõ ràng nên áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội ; giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát giáo dục giúp bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu sung công điện thoại Iphone 7 Plus màu đỏ tạm giữ của bị cáo.

Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và cùng với người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Âu Đình T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Âu Đình T 12 tháng tù cho hưởng án treo, hạn thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Âu Đình T về Ủy ban nhân dân phường T, quận T, Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách của bản án.

Trường hợp bị cáo Âu Đình T thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, bị cáo Âu Đình T cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu sung công 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đỏ, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng và nội dung bên trong, theo Biên bản giao nhận vật chứng số 255 ngày 27 tháng 7 năm 2023 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 240/2023/HS-ST

Số hiệu:240/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về