Bản án về tội hủy hoại tài sản số 43/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 10/12/2021 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

 Trong ngày 10 tháng 12 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 60/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 11 năm 20 21 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2021 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Văn L, sinh năm 1999, tại Châu Thành A, Hậu Giang.

Nơi cư trú: ấp TTA, xã TLT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Nhơn, sinh năm 1966 (Còn sống) và bà Lê Thị Mỹ S, sinh năm 1973 (Còn sống); anh chị em ruột: có 02 người; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không, tiền sự: Không có; bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

1. Lê Thị Mỹ S - sinh năm 1973, nơi cư trú: ấp TTA, xã TLT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang. (có mặt) 2, Lữ Thị Bích H, nơi cư trú: ấp TT, thị trấn BN, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. (vắng mặt) - Người làm chứng:

1. Dương Văn H1, sinh năm 1973, nơi cư trú: ấp 3B, thị trấn BN, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang (vắng mặt).

 2. Nguyễn Bách Chiến, sinh năm 1991, nơi cư trú: ấp 3B, thị trấn BN, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang (vắng mặt).

3. Nguyễn Phương Nhi, sinh năm 2004, trú tại: ấp TTA, xã TLT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang ( có mặt).

4. Nguyễn Văn Cường sinh năm 1984, trú tại: ấp TTA, xã TLT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 9/2020, bà Lê Thị Mỹ S được bà Lữ Thị Bích H cho mượn ngôi nhà cấp 4, vách tường, mái bằng tote tại ấp 3B,  thị trấn Bảy Ng, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang để sử dụng. Sau đó, bà S và con ruột là Nguyễn Văn L về ngôi nhà này ở, bà S cũng để dụng cụ làm vườn tại ngôi nhà này. Đến chiều ngày 06/8/2021, Nguyễn Văn L sau khi đi uống rượu tại nhà ông Dương Văn H1 về nhà thì có biểu hiện la lối, chửi thề và cầm cây đập phá tài sản. Lúc này, bà S nhờ mọi người can ngăn, khống chế và trói L lại nhưng sau đó L giật mạnh làm khung cửa sổ bung ra nhưng tay L vẫn còn bị trói, L tiếp tục chửi, đòi đánh mọi người, nên tất cả đều bỏ đi. Lúc này, L ở nhà lấy vải lau nhà đem đến bếp gas đốt nhằm làm cháy dây trói tay nhưng không được, L ném miếng vải lau về phía máy xăng trong nhà gây ra cháy, khi lửa cháy, L không dập tắt được thì bỏ đi ra ngoài ngồi hút thuốc, một lúc sau lửa cháy lớn, L bỏ đi khỏi nhà. Sau khi L bỏ đi, bà S và hàng xóm xung quanh tiến hành dập lửa và báo lực lượng Công an đến giải quyết.

Thiệt hại về tài sản gồm:

+ Một nhà cấp 4, vách tường, nền gạch, mái tole có diện tích 4,6mx11,3m bị hư hỏng một số cấu trúc sau: Vách tường bị cháy xém, rạng nứt bám khói đen, từ sau ra trước bên trong căn nhà, trong đó vách tường hai bên là loại tường 10cm, diện tích hư hỏng 64,4m2; Vách tường ngang là loại tường 10cm, diện tích hư hỏng 47,2m2; Trần nhà bằng la phong nhựa bị cháy hư hỏng hoàn toàn, diện tích hư hỏng 49,72m2; Dây điện, ổ điện, cụm đồng hồ điện bị cháy hư hỏng hoàn toàn; Mái tole bằng kẽm, gồm năm tấm, bị cháy biến dạng bám khói đen, diện tích hư hỏng 51,895m2; 16 cây đòn tay bằng gỗ, loại 4cm2 bị cháy biến dạng, hư hỏng hoàn toàn.

+ Một máy bơm phun thuốc, gồm: một máy động cơ xăng, loại 6,5HP và một máy bơm nén nhãn hiệu VANGUARD bị cháy hư hỏng hoàn toàn.

+ Một cân đồng hồ nhãn hiệu Nhơn Hòa, loại 120kg, màu xanh bị cháy hư hỏng hoàn toàn.

+ Một thùng túi bao trái, nhãn hiệu GO OK24 Made in Taiwan, màu trắng, gồm 4.000 túi bị cháy hư hỏng hoàn toàn.

+ Một thùng túi bao trái, nhãn hiệu GO 9L05 màu vàng nâu, Made in Taiwan, gồm 2.000 túi bị cháy hư hỏng.

Tại Kết luận định giá số 30/KL-ĐGTS ngày 31/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành A kết luận: Một thùng túi bao trái, nhãn hiệu GO OK24 Made in Taiwan, màu trắng, gồm 4.000 túi, bị cháy hư hỏng; Một thùng túi bao trái, nhãn hiệu GO 9L05 Made in Taiwan, màu vàng nâu, gồm 2.000 túi, bị cháy hư hỏng; Một cân đồng hồ, nhãn hiệu Nhơn Hòa, loại 120kg, màu xanh, bị cháy biến dạng, hư hỏng hoàn toàn và một máy bơm phun thuốc, gồm một động cơ xăng, loại 6,5HP và một máy nén, nhãn hiệu VANGUARD, bị cháy biến dạng, hư hỏng hoàn toàn có giá trị là 7.300.000 đồng (bút lục 68-70).

Tại Kết luận định giá tài sản số 40/KL-ĐGTS ngày 11/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành A kết luận: Đối với một nhà cấp 4, diện tích 4,6mx11,3m, có vách tường, nền gạch, mái tole, bị cháy hư hỏng gồm: Vách tường hai bên, loại tường 10cm, diện tích 64,4m2; Vách tường ngang, loại tường 10cm, diện tích hư hỏng 47,2m2; Trần nhà bằng la phong nhựa bị cháy, hư hỏng hoàn toàn, diện tích 49,72m2; Mái tole bằng kẽm, gồm năm tấm, bị cháy biến dạng bám khói đen, diện tích hư hỏng 51,895m2 và mười sáu 16 cây đòn tay bằng gỗ, loại 4cm2 có tổng giá trị là 25.788.958 đồng (bút lục 135-139).

Đối dây điện, ổ điện, cụm đồng hồ điện bị cháy hư hỏng, theo lời trình bày của Lê Thị Mỹ S trước khi vụ cháy xảy ra dây diện, ổ điện và cụm đồng hồ điện đã bị hư không còn sử dụng được. Sau khi vụ cháy xảy ra dây điện, ổ điện, cụm đồng hồ điện đã bị cháy hư hỏng hoàn toàn. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu thập tài liệu trưng cầu định giá nhưng do không rõ nguồn gốc, giá trị, nhãn hiệu, thông số kỹ thuật nên Hội đồng định giá không định giá được (bút lục 113, 117, 139).

Đối với các tài sản bị thiệt hại do hành vi dùng lửa đốt cháy của Nguyễn Văn L gây ra, quá trình khám nghiệm hiện trường đã ghi nhận các thông tin có liên quan, tình trạng hư hỏng, sau khi tiến hành định giá tài sản đã tiến hành giao lại cho bị hại theo quy định (bút lục 2-3).

Tại Cáo trạng số 56/CT-VKS-HCTA ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A đã truy tố bị cáo L về tội “Hủy hoại tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn L về tội Hủy hoại tài sản. Sau khi phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; phân tích hành vi, tính chất, mức độ, nhân thân của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội "Hủy hoại tài sản", đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 178, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ đến 9 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

Về trách nhiệm dân sự, các bị hại không yêu cầu nên không đặt ra xem xét. Vật chứng trong vụ án: không có.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được xem xét cho hưởng án treo để có điều kiện làm việc, kiếm tiền khắc phục hậu quả đã gây ra, bị hại S đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A; Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A; Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện theo quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện được xem là hợp pháp.

[1.2] Tại phiên tòa, người bị hại Lữ Thị Bích H và người làm chứng vắng mặt, bà H có đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại, những người làm chứng đã cung cấp lời khai rõ ràng, sự vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt bà H và những người làm chứng.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Về hành vi phạm tội: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn L đều thừa nhận hành vi bị cáo đã thực hiện. Đối chiếu lời thừa nhận của bị cáo với lời khai của bị hại, những người làm chứng và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án là phù hợp, chứng minh được như sau: Vào chiều ngày 06/8/2021, Nguyễn Văn L sau khi đi uống rượu với ông Dương Văn H1 khi về nhà thì có biểu hiện la lối, chửi thề và cầm cây đập phá tài sản, bà S nhờ mọi người trói L lại nhưng sau đó L giật mạnh làm khung cửa sổ bung ra nhưng tay L vẫn còn bị trói, L lấy vải lau nhà đem đến bếp gas đốt nhằm làm cháy dây trói tay nhưng không được, L ném miếng vải lau về phía máy xăng trong nhà gây ra cháy, khi lửa cháy, L không dập tắt được thì bỏ đi ra ngoài, khi lửa cháy lớn, L bỏ đi khỏi nhà. Hậu quả là căn nhà và một số vật dụng trong nhà bị cháy.

Tại Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Số tài sản bị thiệt hại của bà Lê Thị Mỹ S có tổng giá trị là 7.300.000 đồng (bút lục 68-70); Số tài sản thiệt hại là căn nhà của bà Lữ Thị Bích H có tổng giá trị là 25.788.958 đồng (bút lục 135-139).

[2.2] Về tội danh: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết việc dùng giẻ đang cháy ném về phía máy xăng là nguy hiểm, sẽ dẫn đến hỏa hoạn nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi. Hậu quả từ việc làm của bị cáo đã làm cháy căn nhà của bị hại Lữ Thị Bích H và một số tài sản khác của bị hại Lê Thị Mỹ S. Khi căn nhà và các tài sản khác bị cháy, bị cáo không nhờ mọi người hỗ trợ dập lửa, đến khi lửa cháy lớn bị cáo bỏ mặc không có động thái muốn dập lửa nhằm ngăn chặn thiệt hại xảy ra. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, hành vi của bị cáo L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hủy hoại tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.

[2.3] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tại phiên tòa bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo không có tiền án, tiền sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử khi lượng hình cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[2.4] Về tính chất, mức độ và hình phạt áp dụng:

Xét thấy bị cáo tại thời điểm ban đầu không có ý thức hủy hoại tài sản, nhưng do đã có sử dụng rượu bia nên không kiểm soát được hành vi. Việc bị cáo đốt giẻ rồi ném về phía sào quần áo, gần bên máy xăng là những vật dễ cháy, rất nguy hiểm, bị cáo đương nhiên phải ý thức được điều này và pháp luật buộc phải biết nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi, đến khi lửa cháy lớn bị cáo bỏ mặc cho hậu quả xảy ra dẫn đến thiệt hại tài sản là nhà và một số vật dụng khác. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng nên không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương quản lý cũng đủ sức để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội khắc phục sai sót, lao động chân chính kiếm thu nhập để khắc phục thiệt hại về tài sản cho các bị hại, đồng thời giúp cho bị cáo tự rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho xã hội.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại không yêu cầu nên hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về xử lý vật chứng trong vụ án: không có

[5] Về án phí: Bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A là có căn cứ đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Hủy hoại tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 178, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa chữa bổ sung năm 2017.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày xét xử sơ thẩm.

2. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Trường Long Tây, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang quản lý và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.

3. Trong thời gian thử thách, bị cáo Nguyễn Văn L cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc bị cáo L phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.

4. Về vật chứng: Không có.

5. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

6. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và tiền án phí dân sự sơ thẩm.

7. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo, bị hại Lê Thị Mỹ S có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại Lữ Thị Bích H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hủy hoại tài sản số 43/2021/HS-ST

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về