TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 30/2024/HS-ST NGÀY 29/02/2024 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 02 năm 2024, tại Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2024/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Mùa A Nh; sinh ngày 01 tháng 01 năm 1991 tại huyện C, tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Bản P, xã B, huyện N, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mùa Khua S (đã chết) và bà Giàng Thị S2; Bị cáo chung sống như vợ chồng với bà Sùng Thị C và có 06 người con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/12/2023 cho tới nay, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lý A Chía, sinh năm 1977, là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ, có mặt.
- Bị hại: Bà Sùng Thị C, sinh năm 1995; địa chỉ: Bản P, xã B, huyện N, tỉnh Đ, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Sùng Thị T, sinh năm 1989; Bà Giàng Thị D, sinh năm 1987; cùng địa chỉ: Bản P, xã B, huyện N, tỉnh Đ, đều vắng mặt.
- Người làm chứng: Cháu Mùa Thị L, sinh ngày 30/3/2013; người đại diện theo pháp luật: Bà Sùng Thị C (là mẹ ruột), sinh năm 1995; cùng địa chỉ: Bản P, xã B, huyện N, tỉnh Đ, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Mùa A Nh chung sống với bà Sùng Thị C như vợ chồng từ năm 2009 nhưng không đăng ký kết hôn tại bản P, xã B, huyện N, tỉnh Đ. Khoảng 07 giờ sáng ngày 30/8/2023, Nh hỏi xin bà C số tiền 50.000 đồng để mua ma túy sử dụng nhưng bà C chỉ có 20.000 đồng đưa cho Nh rồi bà C đi làm nương. Đến 13 giờ cùng ngày, Nh lên cơn nghiện ma túy nhưng chỉ có 20.000 đồng bà C cho, không đủ tiền mua ma túy nên Nh bực tức đấm, đá vào bao tải xác rắn đựng quần áo của gia đình, treo trên ván gỗ trong nhà, làm cho bao tải rơi xuống đất. Sau đó, Nh liền lấy một thanh củi đang cháy trong bếp đốt bao tải quần áo. Lúc đó, trong nhà có 02 con trai của Nh là cháu Mùa A Ph, sinh năm 2022 đang khóc, Mùa A D, sinh năm 2020 và con gái là cháu Mùa Thị L, sinh năm 2013, nên Nh bảo L đưa 02 con trai đi ra ngoài. Một lát sau, bao tải đựng quần áo bốc cháy lửa lớn, Nh dùng ghế gỗ dập tắt lửa nhưng vẫn còn bốc khói, rồi Nh bỏ đi chơi tại một đám cưới ở trong bản. Đến 15 giờ cùng ngày, người dân trong bản thấy nhà Nh cháy rụi hoàn toàn, đã báo tin cho Công an xã B để xác minh, làm rõ.
Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường (có bản ảnh kèm theo) của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã xác định toàn bộ ngôi nhà đã bị cháy rụi, chỉ còn than trên nền đất rộng 3,80 mét, dài 6,60 mét, các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình cũng đã bị cháy hỏng. Quá trình điều tra đã xác định được những tài sản bị cháy hỏng hoàn toàn gồm: 60 tấm ván thưng nhà (trong đó có 25 tấm ván gỗ sấu, kích thước 2cm x 20cm x 1,8m, 35 tấm ván gỗ dổi, kích thước 2cm x 20cm x 1,8m), 60 tấm lợp Fibro xi măng, 02 hòm tôn, 03 nồi nhôm, 02 chảo rán bằng sắt, 03 chăn nhung ruột bông và một số đồ dùng sinh hoạt trong gia đình như quần áo cũ, bàn ghế cũ, giường, đệm cũ rách (những tài sản này đều được sử dụng từ năm 2013); 04 váy phụ nữ dân tộc Mông chưa qua sử dụng.
Tại Kết luận định giá tài sản số 35/KL-HĐĐGTS, ngày 26/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N xác định: 25 tấm ván gỗ sấu có tổng giá trị 1.500.000 đồng; 35 tấm gỗ ván dổi có tổng giá trị 3.500.000 đồng; 04 váy Mông có giá trị 5.600.000 đồng; 60 tấm Fibro xi măng có giá trị 900.000 đồng; 02 hòm tôn có giá trị 60.000 đồng; 03 nồi nhôm có giá trị 60.000 đồng; 02 chảo rán bằng sắt có giá trị 30.000 đồng; 03 chăn nhung ruột bông không còn giá trị sử dụng. Trong đó, có 02 váy phụ nữ dân tộc Mông, mỗi váy có giá trị là 1.400.000 đồng là của bà Sùng Thị T và bà Giàng Thị D thuê bà C khâu, 02 váy phụ nữ dân tộc Mông tổng giá trị là 2.800.000 đồng là trang phục cá nhân của bà C, số tài sản bị thiệt hại còn lại là tài sản chung của bị cáo Nh và bà C có tổng giá trị là 6.050.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị hủy hoại là 11.650.000 đồng, trong đó có 2.800.000 đồng là tài sản của bà T và bà D, 5.825.000 đồng là của bà C, còn lại 3.025.000 đồng là của bị cáo Nh. Ngoài ra trong nhà còn có một số đồ dùng sinh hoạt cũ, không còn giá trị nên bà C và bị cáo Nh không yêu cầu định giá.
Tại bản Cáo trạng số 07/CT-VKSNP, ngày 15/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Đ đã truy tố bị cáo Mùa A Nh về tội Hủy hoại tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Mùa A Nh đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo.
Tại phiên tòa, bị hại bà Sùng Thị C có ý kiến: Bà C và bị cáo Mùa A Nh do không hiểu biết pháp luật nên đã chung sống như vợ chồng từ năm 2009 cho đến nay mà không đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Quá trình chung sống đến năm 2023, bà C và Nh đã tạo lập được khối tài sản chung là 01 ngôi nhà gỗ thưng bằng ván, lợp mái Fibro xi măng và một số đồ dùng sinh hoạt trong nhà, tổng trị giá là 6.050.000 đồng. Ngoài khối tài sản chung, bà C có 02 chiếc váy là trang phục của phụ nữ Mông, trị giá 2.800.000 đồng, đây là trang phục cá nhân của bà. Bên cạnh đó, bà còn nhận may thuê 02 chiếc váy cho chị gái là bà Sùng Thị T (tiền công là 200.000 đồng) và bà Giàng Thị D (trả công bằng thóc) những chiếc váy này được bà C may gần xong trị giá 02 chiếc váy là 2.800.000 đồng. Bà C không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do hoàn cảnh gia đình bà rất khó khăn.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Sùng Thị T và bà Giàng Thị D đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra có ý kiến như sau: Bà T và bà D đều là người thân của bà C, do hoàn cảnh nhà bà C khó khăn nên 02 người đã mua nguyên vật liệu về thuê bà C khâu váy cho. Cả 02 chiếc váy đã được bà C khâu gần xong có giá trị 1.400.000 đồng/váy nhưng đã bị bị cáo Nh đốt cháy hoàn toàn, do hoàn cảnh gia đình bị cáo Nh khó khăn nên cả 02 bà không yêu cầu bị cáo hay bà C bồi thường gì.
Người làm chứng cháu Mùa Thị L vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra cháu có lời khai như sau: Ngày 30/8/2023 cháu Mùa Thị L đang ở nhà cùng với 02 em trai, thì nhìn thấy bố L là bị cáo Mùa A Nh dùng thanh củi đang có ngọn lửa cháy trong bếp đốt bao tải quần áo màu vàng ở dưới đất.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Mùa A Nh về tội Hủy hoại tài sản và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 178, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Mùa A Nh 08 (tám) tháng đến 10 (tháng) tù.
Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại là bà Sùng Thị C và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Sùng Thị T và bà Giàng Thị D không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại, nên không đề cập xử lý.
Về vật chứng: Không có, không đề nghị xem xét.
Người bào chữa cho bị cáo Mùa A Nh nhất trí với luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo. Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo mức thấp nhất theo mức đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo, bị hại không có ý kiến tranh luận gì. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tội danh và điều luật Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố đối với bị cáo:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Mùa A Nh đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng 13 giờ ngày 30/8/2023, do bực tức vì lên cơn nghiện nhưng bà Sùng Thị C không cho đủ tiền mua ma túy sử dụng, Mùa A Nh đã có hành vi dùng 01 thanh củi đang cháy trong bếp lửa, đốt bao tải xác rắn đựng quần áo của gia đình Nh. Khi lửa cháy lớn, Nh dùng ghế gỗ dập lửa nhưng khói từ bao tải quần áo vẫn bốc lên, Nh bỏ mặc đi chơi. Đến khoảng 15 giờ chiều ngày 30/8/2023, ngôi nhà chung của Nh và bà C và toàn bộ tài sản trong ngôi nhà đã bị cháy hoàn toàn, mức độ thiệt hại là 100%. Tổng giá trị tài sản bị hủy hoại là 11.650.000 đồng (mười một triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng), trong đó giá trị tài sản thiệt hại của bà Sùng Thị C là 5.825.000 đồng, của bà Sùng Thị T là 1.400.000 đồng, của bà Giàng Thị D là 1.400.000 đồng (tổng giá trị thiệt hại là 8.625.000 đồng); còn lại 3.025.000 đồng là của bị cáo Mùa A Nh. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận định giá và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.
Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Mùa A Nh phạm tội Hủy hoại tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào hủy hoại … tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:”
[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng, có tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội không lớn, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo lên cơn nghiện ma túy, không có tiền mua ma túy để sử dụng, đã hủy hoại tài sản của chính gia đình mình và của người khác, hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, tuy bị cáo không mong muốn ngôi nhà của gia đình và tài sản của người người khác bị cháy nhưng bị cáo nhận thức được việc bỏ mặc bao quần áo đang bốc khói trong nhà là nguy hiểm, có thể gây cháy nhà, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, không bị ai xúi giục. Hành vi của bị cáo phải xử lý nghiêm minh để giữ vững kỷ cương của pháp luật và làm gương răn đe, giáo dục trong nhân dân.
[3] Về nhân thân: Bị cáo Mùa A Nh ngoài lần phạm tội này chưa có tiền án, tiền sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo luôn thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị hại là bà Sùng Thị C đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 178 của Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định từ 01 năm đếm 05 năm.” do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo có nghề nghiệp chính là làm nông nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản giá trị nên bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị hại là bà Sùng Thị C không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại số tiền là 5.825.000 đồng. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là Sùng Thị T bà Giàng Thị D không yêu cầu bị cáo, bị hại phải bồi thường giá trị thiệt hại 02 chiếc váy phụ nữ Mông là 2.800.000 đồng, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về vật chứng của vụ án: Không có.
[8] Xét đề nghị của người bào chữa: Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Mùa A Nh nhất trí với luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo. Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo mức thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát. Xét thấy đề nghị của người bào chữa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên và người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa và bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo là dân tộc thiểu số (dân tộc Mông) sống tại xã B, huyện N, tỉnh Đ là xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[11] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 178, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Mùa A Nh phạm tội Hủy hoại tài sản.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Mùa A Nh 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bị bắt tạm giam 05/12/2023.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Mùa A Nh.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 27/02/2024; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội hủy hoại tài sản số 30/2024/HS-ST
Số hiệu: | 30/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về