Bản án về tội hủy hoại tài sản 11/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VY, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 11/2022/HSST NGÀY 18/01/2022 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 187/2021/HSST ngày 03/12/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 203/2021/HSST- QĐ ngày 29 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

Dương Ngc Th, sinh ngày 01/6/1974; Nơi sinh: Tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 11/12; nghề nghiệp : Lao động tự do; con ông Dương Văn L và bà Nguyễn Thị Q (đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền án: 06 tiền án:

+ Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 658 ngày 10/9/1993, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt Dương Ngọc Th 48 tháng tù giam về tội Cướp giật tài sản của công dân theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985 (tái phạm nguy hiểm). Bồi thường dân sự 400.000đ, án phí hình sự sơ thẩm 15.000đ. Ngày 30/9/1996, T chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương.

+ Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 47/HSST ngày 15/5/1998, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Dương Ngọc Th 04 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản công dân theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 155 BLHS năm 1985 (tái phạm nguy hiểm) (xác định Thành có 03 tiền án là bản án năm 1991, 1992, 1993). Trị giá tài sản trộm cắp 550.000đ. Án phí hình sự sơ thẩm 50.000đ. Ngày 09/12/2001, T chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương. Ngày 14/12/1998, T đã thi hành xong án phí hình sự.

+ Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 92/HSST ngày 13/11/2002, Tòa án nhân dân thị xã VY (nay là thành phố VY), tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Dương Ngọc Th 02 năm tù giam về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 (xác định Thành có 04 tiền án là bản án năm 1991, 1992, 1993, 1998). Án phí hình sự sơ thẩm 50.000đ. Ngày 20/8/2004, T chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương. Ngày 22/4/2003, T thi hành xong án phí hình sự.

+ Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 98/HSST ngày 03/11/2005, Tòa án nhân dân thị xã VY (nay là thành phố VY), tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Dương Ngọc Th 66 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 (xác định Thành có 04 tiền án là bản án năm 1992, 1993, 1998, 2002). Trị giá tài sản trộm cắp là 25.500.000đ. Bồi thường dân sự 25.500.000đ, án phí hì nh sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm 177.500đ. Ngày 20/4/2010, T chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương. Ngày 01/10/2007, T thi hành xong án phí hình sự và dân sự sơ thẩm.

+ Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 139/2010/HSST ngày 30/12/2010, Tòa án nhân dân thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Dương Ngọc Th 05 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 (xác định Thành có 04 tiền án là bản án năm 1993, 1998, 2002, 2005). Trị giá tài sản trộm cắp là 17.130.000đ. Bồi thường dân sự 7.000.000đ, án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm 550.00đ. Ngày 26/8/2015, T chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương. Ngày 23/9/2015, T thi hành xong án phí hình sự và dân sự sơ thẩm.

+ Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 03/2016/HSST ngày 15/01/2016, Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên (nay là thành phố Phúc Yên), tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Dương Ngọc Th 06 năm 06 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 (xác định Thành có 03 tiền án là bản án năm 2002, 2005, 2010). Trị giá tài sản trộm cắp là 40.450.000đ. Bồi thường dân sự 21.400.000đ, án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm 1.270.00đ. Ngày 06/4/2021, T chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương. Đến nay, T chưa thi hành xong án phí và bồi thường dân sự. Tiền sự: Không. Nhân thân:

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 145 ngày 7/6/1991, Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố Hà Nội xử phạt Dương Ngọc Th 03 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản công dân theo quy định tại khoản 1 Điều 155 BLHS năm 1985, trị giá tài sản 35.000đ.

+ Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 86 ngày 27/3/1992, Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố Hà Nội xử phạt Dương Ngọc Th 08 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản công dân theo quy định khoản 1 Điều 155 BLHS năm 1985 (tái phạm). Ngày 30/8/1992, T chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam, Công an tỉnh Vĩnh Phúc từ ngày 27/9/2021, (có mặt).

Bị hại: Anh Vũ Anh T, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ dân phố Đ, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

- Ông Nguyễn Đức Â, sinh năm 1951; địa chỉ: Tổ dân phố Đ, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

Ngưi chứng kiến: Chị Bùi Thị H, sinh năm 1984; Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1954; Chị Bùi Thị H, sinh năm 1970; Ông Vũ Thành Tr, sinh năm 1962; ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1963; đều ở địa chỉ: Tổ dân phố Đ, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc, (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Dương Ngọc Th bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 14 giờ ngày 27/8/2021, T cho rằng gia đình ông Vũ Thành C, sinh năm 1962 và gia đình ông Nguyễn Đức Â, sinh năm 1951 là hàng xóm thường xuyên nó i xấu mình nên T nảy sinh ý định đến nhà ông C, ông  gây sự, đập phá tài sản. Khi đi, T cầm theo 02 con dao dài khoảng 25cm (loại dao gọt hoa quả) và 01 viên gạch chỉ màu đỏ đi bộ sang nhà ông Vũ Thành C. Đến nơi, T nhìn thấy cháu nội ông C là cháu Vũ Duy A, sinh năm 2011 bị tàn tật đang ngồi chơi ở bậc thềm nên T đi đến, đá một phát vào người cháu A, rồ i quay lại thì nhìn thấy anh Vũ Anh T, sinh năm 1990 (là con ông C và bố đẻ của cháu A) đang ngồi trong xe ô tô đỗ ở sân nhà. T đi đến chỗ xe ô tô và nói: “Mày đi ra đây không tao đập nát xe mày”. Anh T bước ra thì T dùng tay phải cầm viên gạch chỉ dí vào vùng trán bên trái của anh T và chửi: “Bố con mày cẩn thận không tao giết cả nhà mày”. Anh T xin thì T bỏ viên gạch ra, vừa tiếp tục chửi, vừa đi bộ ra cổng, khi đi qua bộ bàn đá kê ở sát cổng ra vào, T ném viên gạch đang cầm ở tay vào bộ bàn đá, làm bàn đá bị vỡ một phần (ở phần mặt bàn) kích thước (20x7,5)cm không sửa chữa được. Sau khi đi khỏi nhà ông C, T về nhà cất 02 dao gọt hoa quả, cầm 01 dao dài khoảng 50cm, không có chuôi rồi đi bộ sang nhà ông Nguyễn Đức Â. Trên đường đi, T xô đổ 01 tấm Fibro xi măng kích thước (1x1,1)m đặt trên tường bao loan xuống sân sau nhà ông  khiến tấm pro này b ị rơi xuống vỡ vụn, không sử dụng được. Sau đó T vừa đi vừa chửi, vừa nhặt các viên gạch ném vào trong sân nhà ông  (do nhà ông  đang xây nhà nên có nhiều viên gạch rơi vãi xung quanh). Khi đi vào trong sân nhà, T nhặt gạch và 01 thanh gỗ ở sân ném liên tiếp vào bộ bàn ghế và quạt kê ở phòng khách làm vỡ, hư hỏng 01 bộ ấm chén uống nước bằng sứ; 02 ghế gập nhãn hiệu Xuân Hòa; 01 quạt cây Việt Nhật cao 1m, sau đó T bỏ ra về. Một lúc sau, ông  và con trai là anh Nguyễn Đức B, sinh năm 1989 đến nhà T để nói chuyện. Khi cách cổng nhà T khoảng 20m thì T một tay cầm gậy gỗ dài khoảng 80cm, một tay cầm dao rựa dài khoảng 30cm đi ra mở cổng và chửi. Thấy T hung hãn nên ông  và anh B quay về. Khoảng 05 phút sau, T cầm dao và gậy gỗ đi sang nhà ông  tiếp tục chửi bới. Lúc này có ông Nguyễn Văn T là Tổ trưởng Tổ dân phố Đ đến can ngăn, sau đó T bỏ về nhà.

Trước đó, Dương Ngọc Th còn chửi bới, dùng gạch ném vào sân một số nhà hàng xóm xung quanh nhưng không gây thiệt hại gì về tài sản. Khoảng tháng 6/2021, có một số lần T dùng gạch ném sang sân vườn nhà bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1954; Ngày 10/8/2021, T chửi bới và dùng gạch ném vào nhà chị Bùi Thị H, sinh năm 1970; Khoảng giữa tháng 8/2021, T có chửi bới ông Vũ Thành C; Đến ngày 27/8/2021, T tiếp tục chửi bới và dùng gạch ném hư hỏng đồ đạc nhà ông C và ông  như nội dung nêu trên; Sau đó đến ngày 09/9/2021, 13/9/2021 và 14/9/2021, T liên tục chửi bới và dùng gạch ném vào nhà chị Bùi Thị T, sinh năm 1984 ở liền kề nhà T. Tại Cơ quan điều tra, Dương Ngọc Th khai nhận là sau khi chấp hành án phạt tù trở về địa phương, những nhà hàng xóm xung quanh không cho T sử dụng nhờ điện sinh hoạt, có thái độ khinh thường, nói xấu T. Hậu quả những hành vi trên của T đã làm cho những người dân xung quanh nhà T ở tổ dân phố Đ, phường ĐT, thành phố VY hoang mang, lo sợ, cuộc sống bị đảo lộn, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương và làm hư hỏng tài sản của nhà ông C và ông Â.

Ngày 27/8/2021, anh Nguyễn Đức B và Vũ Anh T đã đến Công an phường ĐT trình báo sự việc. Sau khi nhận được tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố VY tiến hành khám nghiệm hiện trường, xác định tài sản bị hư hỏng bao gồm: Tại nhà ông Nguyễn Đức  bị hư hỏng 01 cây quạt nhãn hiệu Việt Nhật cao 1m bị gãy cánh và cong vênh; 01 tấm Fibro xi măng bị vỡ thành nhiều mảnh; 01 bộ ấm chén đã vỡ; 02 ghế gập nhãn hiệu Xuân Hòa bị cong, gãy chân ghế; Tại nhà ông Nguyễn Đức C bị hư hỏng 01 bàn đá bị vỡ mặt bàn kích thước (20x7,5)cm. Tất cả các tài sản trên đều trong tình trạng bị hư hỏng, không sửa chữa được.

Thu giữ tại hiện trường nhà ông Nguyễn Đức Â: 01 lưỡi dao bằng sắt kích thước (38,5x6,5)cm; 01 thanh gỗ kích thước (3x5x91)cm; 01 viên gạch loại gạch chỉ kích thước (14x10,5x5)cm; 01 cây quạt nhãn hiệu Việt Nhật cao 1m; 01 tấm F ibro xi măng bị vỡ thành nhiều mảnh; 01 bộ ấm chén; 02 ghế gập nhãn hiệu Xuân Hòa; thu giữ tại nhà ông Vũ Thành C 01 bàn đá.

Ngày 07/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố VY có văn bản đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố VY định giá đối với tài sản bị hư hỏng nêu trên. Tại kết luận định giá số 167 ngày 10/9/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố VY kết luận: 01 quạt cây đứng (loại 03 cánh đỏ, cao khoảng 1m) trị giá 200.000đ; 01 ghế gập Xuân Hòa trị giá 80.000đ; 01 ghế gập có phần lót ngồi bằng nhựa cứng màu vàng trị giá 80.000đ; 01 bộ ấm chén trị giá 50.000đ; 01 tấm F ibro xi măng trị giá 40.000đ; 01 bàn đá trị giá 1.200.000đ. Tổng trị giá thiệt hại là 1.650.000đ.

Tại Cáo trạng số: 199/CT- VKSNDTPVY -VP ngày 30 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố VY đã truy tố bị cáo Dương Ngọc Th về tội “Hủy hoại tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Dương Ngọc Th khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Dương Ngọc Th phạm tội “Huỷ hoại tài sản”. Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù thời hạn tù áp dụng từ ngày bắt tạm giam bị cáo ; đề nghị áp dụng: Khoản 1 Điêu 47 của Bô luât Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu huỷ 01 lưỡi dao bằng sắt kích thước (38,5x6,5)cm; 01 thanh gỗ kích thước (3x5x91)cm; 01 viên gạch loại gạch chỉ kích thước (14x10,5x5)cm là công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người nghiện ma tuý, không có tài sản, không có nghề nghiệp nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Người bị hại: Anh Vũ Anh T và ông Nguyễn Đức  vắng mặt phiên toà nhưng tại các biên bản lấy lời khai tại cơ quan điều tra anh T và ông  trình bày như trong nội dung bản cáo trạng và lời khai của bị cáo, anh T và ông  tự nguyện nhận lại tài sản đã bị hỏng và đều không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại.

Những người chứng kiến là Chị Bùi Thị T; Bà Nguyễn Thị A; Chị Bùi Thị H; ông Vũ Thành T; ông Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên toà tại các biên bản lấy lời khai trình bày như nội dung bản cáo trạng và lời khai của bị cáo về việc T có các hành vi chửi bới, dùng gạch ném vào hàng xóm xung quanh gây hoang mang lo sợ, anh hưởng xấu đến an ninh trật tự đến các hộ dân sinh sống trong tổ dân phố Đ, phường ĐT và đều đơn trình báo đề nghị xử lý T theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Dương Ngọc Th không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo Dương Ngọc Th tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người bị hại, người chứng kiến về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra; phù hợp với vật chứng, với kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 27/8/2021, tại tổ dân phố Đ, phường ĐT, thành phố VY, Dương Ngọc Th có hành vi dùng gạch ném vỡ mặt bàn đá gây hư hỏng không sửa chữa được của nhà anh Vũ Anh T, trị giá 1.200.000đ; sau đó T tiếp tục có hành vi dùng tay đẩy 01 tấm Fibro xi măng xuống đất, vỡ vụn làm nhiều phần, sau đó tiếp tục sử dụng gạch, lưỡi dao bằng sắt, gậy gỗ ném liên tiếp làm vỡ hoàn toàn 01 bộ ấm chén, 01 cây quạt và 02 ghế gập gây hư hỏng hoàn toàn không sửa chữa được của nhà ông Nguyễn Đức  trị giá 450.000đ.

Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ đầu tháng 8/2021 đến giữa tháng 9/2021, Dương Ngọc Th liên tục có các hành vi chửi bới, đe dọa, ném gạch vào sân nhà các hộ dân trong Tổ dân phố Đ, phường ĐT, thành phố VY gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại khu vực.

Hành vi nêu trên của Dương Ngọc Th đã phạm vào tội “Hủy hoại tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự. Nội dung Điều luật quy định:

“1. Người nào hủy hoại … tài sản của người khác trị giá …dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000đ đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm… c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:… g) Tái phạm nguy hiểm.”.

Xét hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo liên tục có các hành vi chửi bới, đe doạ, ném gạch và các hộ gia đình trong tổ dân phố Đ, phường ĐT, thành phố VY gây tâm lý hoan mang lo lắng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại khu vực trên. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng , giảm nhẹ trách nhiệm h ình sự và nhân thân của người phạm tội, Hôi đông xet xư nhân thây:

Bị cáo phạm tội theo khoản 2 Điều 178 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã nhiều lần phạm tội chưa được xoá án tích lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp định khung tăng nặng hình phạt với tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 178 của Bộ luật Hình sự, bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về nhân thân: Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử về các tội “Trộm cắp tài sản”, “Cướp tài sản”, “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Điều đó chứng tỏ bị cáo là đối tượng rất coi thường pháp luật, không biết ăn năn hối cải để hoàn lương.

Từ các căn cứ nêu trên, xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý, nếu để cải tạo tại địa phương sẽ không có tác dụng giáo dục nói chung, cân chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đ đến 100.000.000đ. Tuy nhiên, tại phiên tòa xác định bị cáo là người nghiện ma tuý, không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với b ị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Vũ Anh T và ông Nguyễn Đức Â, không yêu cầu b ị cáo phải bồi thường tài sản b ị thiệt hại. Nên hộ i đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 lưỡi dao bằng sắt kích thước (38,5x6,5)cm; 01 thanh gỗ kích thước (3x5x91)cm; 01 viên gạch loại gạch chỉ kích thước (14x10,5x5)cm, quá trình điều tra xác định lưỡi dao bằng sắt là tài sản của Dương Ngọc Th; 01 viên gạch và 01 thanh gỗ đây là công cụ T sử dụng để hủy hoại tài sản không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 cây quạt nhãn hiệu Việt Nhật cao 1m; 01 tấm Fibroxi măng bị vỡ thành nhiều mảnh; 01 bộ ấm chén; 02 ghế gập nhãn hiệu Xuân Hòa, quá trình điều tra xác định là tài sản của ông Nguyễn Đức Â, ngày 04/11/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố VY xử lý vật chứng, trả lại những tài sản trên cho ông Nguyễn Đức Â, ông  nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

Đối với 01 bàn đá bị vỡ mặt bàn kích thước (20x7,5)cm, quá trình điều tra xác định là tài sản của anh Vũ Anh T, ngày 06/11/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố VY xử lý vật chứng, trả lại tài sản trên cho anh Vũ Anh T, anh T nhận lại tài sản, xác định đúng là tài sản của anh và không có yêu cầu gì .

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Dương Ngọc Th phạm tội “Huỷ hoại tài sản”.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 178 với tình tiết tại điểm d khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Dương Ngọc Th 04 (bốn) năm tù thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo (ngày 27/9/2021).

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 lưỡi dao bằng sắt kích thước (38,5x6,5)cm; 01 thanh gỗ kích thước (3x5x91)cm; 01 viên gạch loại gạch chỉ kích thước (14x10,5x5)cm. (đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc Dương Ngọc Th phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hủy hoại tài sản 11/2022/HSST

Số hiệu:11/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về