Bản án về tội hủy hoại rừng số 02/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 25/03/2021 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG

Ngày 25 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Nông Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2021/HSST ngày 11 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 01/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Ngô Thị T, sinh ngày 10 tháng 01 năm 1974 tại xã QL, huyện Nông Sơn, Quảng Nam.

Quê quán: Quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn TN, xã Quế L, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Đ (chết) và bà Nguyễn Thị Th (chết); bị cáo có chồng tên Phạm Văn L, sinh năm 1972 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không.

* Có mặt tại phiên tòa - Người bào chữa cho bị cáo Ngô Thị T: Có ông Trương Ngọc Tr, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Nam.

* Có mặt tại phiên tòa - Nguyên đơn dân sự: Ủy ban nhân dân xã QL, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Người đại diện theo pháp luật có ông Trần Văn S, Chức vụ: Chủ tịch UBND xã QL.

* Có mặt tại phiên tòa - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Ban quản lý Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voi. Người đại diện theo pháp luật có ông Mai Văn D, chức vụ: Phó giám đốc phụ trách ban quan lý khu bảo tồn loài và sinh cảnh voi.

Trụ sở: Thôn PH, xã QL, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

+ Ông Phạm Văn L, sinh năm 1972.

+ Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1970.

+ Bà Lê Thị L, sinh năm 1976.

+ Bà Trần Thị Thương, sinh năm 1968.

Cùng trú tại: Thôn TN, xã QL, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

* Có mặt tại phiên tòa.

+ Ông Lê L, sinh năm 1965.

+ Bà Trương Thị Kim Y, sinh năm 1974 Cùng trú tại: Thôn TN, xã QL, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

* Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng cuối năm 2019, bị cáo vào khu vực Hòn Dung (thuộc khoảnh 02, tiểu khu 456) thôn TN, xã QL, huyện Nông Sơn để chăn trâu. Trong quá trình chăn trâu bị cáo có phát dọn cây bụi, giang, lách để lấy đất làm lán trại cho trâu ở. Thấy có rừng dễ phát nên bị cáo nảy sinh ý định phát rừng trái phép để lấy đất trồng Keo lá tràm. Đến tháng 02/2020, bị cáo vào lại khu vực này thì có 04 người đi làm thuê (không rõ họ, tên quê ở tỉnh BĐ ở lán trại gần đó), nên bị cáo thuê 04 người này phát 34 ngày, tổng cộng bị cáo đã trả cho họ số tiền là 10.200.000 đồng (mỗi công là 300.000 đồng/người/ngày). Đầu tháng 5/2020 bị cáo tự mình lên dọn và đốt thực bì để dọn đất trồng keo. Đến ngày 22/5/2020 bị cáo tiếp tục thuê 04 người gồm: Anh Nguyễn Văn Th, chị Lê Thị L, chị Trần Thị Thg và chị Trương Thị Kim Y (cùng trú thôn TN, xã QL) cùng với bị cáo lên khu vực này để trồng keo lá tràm. Khi những người này đang trồng keo thì Ủy ban nhân dân xã QL, huyện Nông Sơn phối hợp với Ban quản lý Bảo tồn loài và sinh cảnh Voi phát hiện lập biên bản sự việc.

Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Hạt Kiểm lâm huyện Nông Sơn đã khởi tố vụ án, và Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Sơn khởi tố bị can đối với bị cáo về tội “Hủy hoại rừng”.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường số 01/BB-KNHT ngày 09/7/2020 và sơ đồ trích đo kèm theo của Hạt Kiểm lâm huyện Nông Sơn xác định diện tích rừng bị cáo phát trái phép là: 11.400 m2. Số lượng cây gỗ có trên diện tích rừng bị hủy hoại là 280 cây, với trữ lượng gỗ là 15,972 m3.

Căn cứ theo Nghị định 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ; Thông tư 33/2018/TT-BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn; Quyết định 2462/2013/QĐ-UBND ngày 08/9/2013 và Quyết định 120/QĐ-UBND ngày 11/01/2017 của UBND tỉnh Quảng Nam thì diện tích rừng mà bị cáo phát trái phép thuộc hiện trạng rừng nghèo kiệt, được quy hoạch chức năng rừng sản suất.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 16/KL-ĐGTS ngày 26/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam kết luận: Diện tích rừng bị cáo phá trái phép là rừng sản xuất, diện tích bị hủy hoại là 11.400m2, số cây gỗ có trên diện tích rừng bị chặc hạ là 280 cây, với trữ lượng gỗ là 15,972 m3. Tổng giá trị thiệt hại là: 53.116.305 đồng (Năm mươi ba triệu một trăm mười sáu ngàn ba trăm lẽ năm đồng).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố tại Cáo trạng số 01/CT-VKSNS ngày 06 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Ngô Thị T về tội: “Hủy hoại rừng” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 243; điểm b, s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng tính từ ngày tuyên án.

Đại diện nguyên đơn dân sự, ông Trần Văn S yêu cầu HĐXX buộc bị cáo Ngô Thị T bồi thường thiệt hại rừng cho Nhà nước mà bị cáo gây ra và giao toàn bộ diện tích đất rừng cùng với toàn bộ cây Keo bị cáo đã trồng cho UBND xã quản lý theo thẩm quyền. Về phần hình phạt, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện nay gặp rất nhiều khó khăn như bị cáo trình bày nên đề nghị HĐXX áp dụng Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo để các bị cáo có điều kiện làm ăn chăm sóc gia đình và kiếm tiền bồi thường thiệt hại số tiền còn lại cho Nhà nước Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bản cáo trạng của Viện kiểm sát.

Ý kiến của người bào chữa: Hoàn cảnh của bị cáo đặc biệt khó khăn như bị cáo đã trình bày nên đề nghị HĐXX xét áp dụng điểm b, s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS năm 2015 xem xét xử phạt bị cáo Ngô Thị T với mức án nhẹ và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện ở nhà làm ăn, nuôi con nhỏ ăn học, chăm sóc chồng bị bệnh hiểm nghèo.

Bị cáo thuộc hộ nghèo nên đề nghị HĐXX cho các bị cáo được miễn án phí theo quy định.

Nguyên đơn dân sự xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì.

Bị cáo T nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện nuôi con còn nhỏ đang ăn học và nuôi chồng bệnh tật hiểm nghèo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Nông Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Kết quả tranh tụng tại phiên tòa xác định được: Vào tháng 02/2020, bị cáo vào khu vực HD thuộc khoảnh 02, tiểu khu 456, thôn TN, xã QL, huyện Nông Sơn thuê 04 người (không rõ họ, tên quê ở tỉnh BĐ), phát rừng thuê cho bị cáo để lấy diện tích trồng keo lá tràm. Sau khi phát xong, đến tháng 5/2020 bị cáo tự mình lên dọn và đốt thực bì để lấy đất trồng keo. Ngày 22/5/2020 khi bị cáo đang tổ chức trồng keo lá tràm tại khu vực này thì bị phát hiện lập biên bản sự việc. Diện tích rừng bị cáo phá trái phép là rừng sản xuất, với tổng diện tích bị hủy hoại là 11.400 m2, số cây gỗ có trên diện tích rừng bị hủy hoại là 280 cây, với trữ lượng gỗ là 15,972 m3 có giá trị thiệt hại là: 53.116.305 đồng (Năm mươi ba triệu một trăm mười sáu ngàn ba trăm lẽ năm đồng).

Với hành vi nêu trên, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Ngô Thị T phạm tội “Hủy hoại rừng” theo điểm đ khoản 2 Điều 243 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bản cáo trạng số 01/CT-VKSNS ngày 06 tháng 1 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo T có đầy đủ khả năng nhận thức việc hủy hoại rừng là vi phạm pháp luật, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền quản lý tài sản của Nhà nước làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 243 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra thì mới có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có cơ sở áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử bị cáo dưới mức dưới khung hình phạt liền kề khi xem xét lượng hình.

[4]. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Bị cáo T có nhân thân tốt; không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo tự nguyện khắc phục một phần thiệt hại cho Nhà nước; sau khi vụ án bị cáo tích cực đã lập công chuộc tội (có thành tích đột xuất đặc biệt trong phong trào đấu tranh phòng chống tội phạm được UBND xã QL tặng “Giấy khen” năm 2021); bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình, nuôi con nhỏ đang đi học (Phạm Thị My N, sinh năm 2005 và Phạm Thị Trúc L, sinh năm 2012) và chăm sóc chồng bị bệnh hiểm nghèo (Ông Phạm Văn L là chồng bị cáo bị bệnh Ung thư đại tràng giai đoạn 3); gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà để bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương nơi cư trú theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015, tạo cho bị cáo có điều kiện chăm lo chồng con trong gia đình, cải tạo tốt trở thành người công dân có ích xã hội.

[5]. Những vấn đề liên quan trong vụ án:

Đối với bốn người quê ở tỉnh Bình Định phát rừng thuê cho bị cáo, bị cáo không biết rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Sơn đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của bốn đối tượng này.

Đối với anh Nguyễn Văn Th, chị Lê Thị L, chị Trần Thị Th, anh Lê L và chị Trương Thị Kim Y là những người trồng keo thuê cho bị cáo. Tuy nhiên, những người này không biết việc T phá rừng trái phép nên không xem xét xử lý. Riêng đối với Phạm Văn L là chồng bị cáo biết việc bị cáo đi phát rừng, nhưng không quan tâm nên HĐXX không xem xét.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Vụ án xảy ra gây thiệt hại cho Nhà nước 53.116.305 đồng (Năm mươi ba triệu một trăm mười sáu ngàn ba trăm lẽ năm đồng), bị cáo đã tự nguyện khắc phục được 5.000.000đ (Năm triệu đồng) theo biên lại thu số 005141 ngày 23/3/2021 và biên lai thu số 005142 ngày 24/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nông Sơn, còn lại 48.116.305 đồng (Bốn tám triệu một trăm mười sáu ngàn ba trăm lẽ năm đồng) nên cần áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; các Điều 587, Điều 589 của Bộ luật dân sự năm 2015 và khoản 3 Điều 91 Luật Lâm nghiệp buộc bị cáo Ngô Thị T phải bồi thường thiệt hại cho Nhà nước số tiền 48.116.305 đồng (Năm mươi triệu một trăm mười sáu ngàn ba trăm lẽ năm đồng).

Về diện tích đất rừng bị cáo hủy hoại 11.400 m2 và tài sản gắn liền trên đất, giao Ủy ban nhân dân xã Q L, huyện Nông Sơn quản lý theo thẩm quyền.

[7]. Xét luận cứ của người bào chữa của người bào chữa cho bị cáo là phù hợp nên chấp nhận.

[8]. Xét đề nghị áp dụng pháp luật, mức hình phạt và các vấn đề khác của vị đại diện VKS phù hợp nên chấp nhận

[9]. Về án phí: Bị cáo Ngô Thị T thuộc diện hộ nghèo nên được miễm tiền án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 11 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 243; điểm b, s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Thị T phạm tội “Hủy hoại rừng”.

1. Xử phạt: Bị cáo Ngô Thị T 30 (Ba mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng. Tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/03/2021).

Giao bị cáo Ngô Thị T cho Ủy ban nhân dân xã QL, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố tình vi phạm nghĩa vụ từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; các Điều 587, Điều 589 của BLDS năm 2015 và khoản 3 Điều 91 Luật Lâm nghiệp năm 2019, buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho Nhà nước số tiền tổng công 53.116.305 đồng (Năm ba triệu một trăm mười sáu ngàn ba trăm lẽ năm đồng); bị cáo Ngô Thị T đã tự nguyện bồi thường được số tiền 5.000.000 đồng theo biên lại thu số 005141 ngày 23/3/2021 và biên lai thu số 005142 ngày 24/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nông Sơn; số tiền còn lại buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường thiệt hại cho Nhà nước số tiền 48.116.305 đồng (Bốn tám triệu một trăm mười sáu ngàn ba trăm lẽ năm đồng).

Về diện tích đất rừng bị cáo hủy hoại 11.400 m2 và tài sản gắn liền trên đất, giao Ủy ban nhân dân xã Quế Lâm, huyện Nông Sơn quản lý theo thẩm quyền.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 11 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội bị cáo Ngô Thị T được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/3/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hủy hoại rừng số 02/2021/HS-ST

Số hiệu:02/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nông Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về