Bản án về tội giết người và gây rối trật tự công cộng số 98/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 98/2023/HS-ST NGÀY 12/05/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 12 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 199/2022/TLST-HS ngày 02/12/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 204/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Lê Văn T, sinh năm 1995 tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi cư trú: Khu B, thị trấn T, huyện T, Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T1 và bà Nguyễn Thị P; có vợ Đỗ Thị H (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2016; tiền án: Ngày 05/9/2019 bị Toà án nhân dân huyện T xử phạt 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; ngày 15/4/2021 được tha tù trước thời hạn có điều kiện, thời gian thử thách 03 tháng 21 ngày tính từ ngày 01/5/2021; tiền sự: không; Nhân thân: 01/05/2019 bị Công an huyện T ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 2.500.000đ về hành vi “Cố ý gây thương tích”, đã nộp phạt ngày 16/5/2019; bị bắt tạm giam từ ngày 30/11/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa.

Có mặt.

2. Lê Hoàng G, sinh ngày 04/01/2003 tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Khu A, thị trấn T, huyện T, Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T2 (đã chết) và bà Hoàng Thị T3; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/11/2021 đến ngày 18/01/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, tại ngoại, có mặt.

3. T10, sinh ngày 28/12/2003 tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Khu F, thị trấn T, huyện T, Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thiều Quang H1 và bà Lưu Thị L; tiền án, tiền sự: không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, tại ngoại, có mặt.

4. Đoàn Văn Q, sinh năm 1993 tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Khu B, thị trấn T, huyện T, Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị H2 (đã chết); có vợ Lê Thị Mỹ H3 (đã ly hôn) có 02 con, lớn sinh năm 2014 nhỏ sinh năm 2016; bị bắt tạm giam ngày 22/11/2021 đến ngày 18/01/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, tại ngoại, có mặt.

5. Lê Khả C, sinh ngày 16/11/2003 tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Khu C, thị trấn T, huyện T, Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Khả M và Nguyễn Thị M1; tiền án, tiền sự: không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, tại ngoại, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo:

1. Bà Nguyễn Thu H4, Luật sư, Công ty L2, Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa bào chữa cho bị cáo Lê Văn T. Có mặt.

2. Ông Trịnh Đình H5, Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh T bảo chữa cho Lê Khả C và Thiều Quang N, có mặt - Người bị hại: Lê Khả C, sinh ngày 16/11/2003.

Nơi cư trú: Khu C, thị trấn T, huyện T, Thanh Hóa, bị cáo trong vụ án.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Trung T4, sinh năm 1987; nơi cư trú: khu phố Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt Anh Đỗ Viết H6, sinh năm 1998; nơi cư trú: thôn B, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt - Người làm chứng:

1. Ông Lê Bá H7 - Sinh năm 1968. vắng mặt.

2. Anh Lê Minh Đ1 - Sinh năm 1997, vắng mặt.

Nơi cư trú: khu 4 thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

3. Chị Lê Thị T5 - Sinh năm 1994, vắng mặt. Nơi cư trú: thôn M, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

4. Chị Lê Thị T6 - Sinh năm 1991, vắng mặt.

Nơi cư trú: thôn E, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

5. Chị Trịnh Ngọc Q1 - Sinh năm 2003, vắng mặt.

Nơi cư trú: thôn M, xã B, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

6. Chị Lê Thị S - Sinh năm 2005, vắng mặt.

Nơi cư trú: thôn Bích Phương, xã Xuân Sinh, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

7. Anh Nguyễn Văn T7 - Sinh năm 2004, vắng mặt.

Nơi cư trú: khu 1 thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

8. Anh Nguyễn Văn Đ2 - Sinh năm 2005, vắng mặt.

Nơi cư trú: thôn 4, xã Xuân Trường, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

9. Anh Hà Duy H8 - Sinh năm 2003, vắng mặt. Nơi cư trú: khu C thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

10. Anh Lê Công M2 - Sinh năm 2005, vắng mặt. Nơi cư trú: thôn F, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

11. Anh Lê Văn T - Sinh năm 2003, vắng mặt.

Nơi cư trú: khu C thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

12. Anh Nguyễn Hữu D - Sinh năm 1996, vắng mặt. Nơi cư trú: thôn G, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

13. Anh Lê Xuân T8 - Sinh năm 1990, vắng mặt. Nơi cư trú: thôn E, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do mâu thuẫn cá nhân từ trước do nói xấu trên mạng xã hội, nên khoảng 19 giờ 30 ngày 11/11/2021, Đoàn Văn Q, Lê Khả C, Thiều Quang N, và Lê Hoàng G đang ở nhà Đỗ Viết H6, sinh năm 1998, ở thôn B, xã X, huyện T thì Ngô Đức L1, sinh năm 1996, ở thôn D xã X, huyện T gọi điện thoại cho Q hẹn gặp Q có việc. Q rủ C, N, G đi về nhà cùng với Q. Khi về đến nhà Q ở khu đô thị N, thuộc khu phố Đ, thị trấn T, huyện T thì gặp L1 đã đến đây đợi sẵn, L1 nói với nhóm của Q về việc bị Lê Xuân T8, sinh năm 1990, trú tại thôn E, xã X, huyện T đánh tại quán B1 ở khu D, thị trấn T, huyện T và rủ nhóm của Q đến đây để đánh lại T8. Sau đó có Lê Văn T, sinh năm 1995 ở khu B, thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa đến nhà Q, các đối tượng đã rủ thêm cả T đi cùng.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, từ nhà của Q, G điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHA EXCITER chở Q (cầm gậy gỗ), L1 (cầm dao); N điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave chở theo C (cầm gậy bóng chày) và T (cầm dao) đi đến quán B2 và dừng xe ngay trước cửa quán. Lúc này T8 đang ngồi uống nước cùng Nguyễn Hữu D, sinh năm 1996, ở thôn G, xã X, T. L1, T, C, Q và N lao vào trong quán để đánh T8, còn G đứng ở ngoài chờ. Thấy vậy T8 cầm cốc uống nước bằng thủy tinh đứng dậy, L1 cầm dao lao đến chém vào người T8, lúc này T8 ném chiếc cốc đi và giằng co dao với L1 thì Q cầm gậy gỗ vụt một cái vào người T8 (trúng vai), C cầm gậy bóng chày vụt hai cái vào người T8 (trúng vai, hông). T8 kéo L1 lùi vào trong, sau đó bỏ chạy vòng theo đường phía sau quán, chạy qua quán bán đồ ăn bên cạnh ra đường đôi, L1 và Q tiếp tục đuổi theo phía sau T8, còn C cùng N và T chạy quay lại phía trước quán B1. T8 ra đến đường đôi thì chạy qua phía trước quán B2 về phía ngã tư giao nhau với đường Q; lúc này C và T thấy T8 chạy qua nên đuổi theo, Q, L1, N cũng chạy theo phía sau. C cầm gậy bóng chày ném về phía T8 nhưng không trúng, gậy rơi xuống đường và nảy đi một đoạn đến chỗ T8; thấy vậy T8 cúi xuống để nhặt thì C cũng lao đến cúi người xuống để giành gậy với T8. Lúc này T vung dao chém một nhát về phía T8, nhưng do C ngẩng đầu lên nên dao của T chém trúng vào đầu C. C bị thương được người dân đưa đến Bệnh viện đa khoa huyện T sơ cứu. T8 tiếp tục bỏ chạy, các đối tượng T, L1, Q, N đuổi theo T8 đến ngã tư giao nhau với đường Q nhưng không đuổi kịp nên dừng lại; G điều khiển xe máy chở L1 tiếp tục đuổi theo T8 nhưng không tìm được. Nhận thấy hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật nên sau đó các đối tượng Q, L1, T, N, G đã nhanh chóng rời khỏi hiện trường. Còn T8, sau khi chạy thoát, đã tự đến Bệnh viện đa khoa huyện T để xử lý vết thương.

Sự việc các đối tượng đuổi đánh Lê Xuân T8 đã được C1 tại quán B1, C1 của cửa hàng mua bán điện thoại di động Shop FPT và hệ thống camera an ninh trật tự của Công an thị trấn T ghi lại.

Hậu quả:

Đối với Lê Xuân T8: Tại vị trí vùng trên cung mày phải có 01 vết thương rách da chảy máu, bờ mép vết thương nham nhở kích thước (3x1)cm; Tại vùng đỉnh chẩm bên phải có 01 vết thương rách da, chảy máu, bờ mép vết thương gọn, kích thước dài 04cm (Vết thương không tác động đến hộp sọ và não).

Đối với Lê Khả C: Tại vùng đỉnh chẩm có 01 vết thương rách da, chảy máu, dài 20cm, bờ mép vết thương sắc gọn (Vết thương sọ não hở: Vỡ xương đỉnh 2 bên, máu tụ ngoài màng cứng đỉnh trái, khí tụ nội sọ).

Kết quả khám nghiệm hiện trường:

Hiện trường nơi xảy ra vụ án được xác định tại khu vực quán B2 và khu vực đường Đ đoạn qua phía trước quán B2, thuộc địa phận khu D, thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

Khu vực quán B2 có phần hướng Bắc tiếp giáp với đường Đ hướng đi xã X, phía Nam tiếp giáp với khu dân cư Khu D, thị trấn T, phía Đông tiếp giáp với gia đình ông bà Hồng V, phần hướng Tây tiếp giáp với nhà ông bà Tuấn T9. Quán B2 gồm 02 khu: Phần hướng Tây là khu vực khách đến uống nước, được chia làm hai bên tường kính, trong đó bên phải (theo hướng từ ngoài vào) có đặt 02(hai) bộ bàn ghế; vào trong là quầy lễ tân và khu vực pha chế (phần hướng Tây ký hiệu là A). Phần hướng Đông là khu vực khách đến ăn đồ ăn vặt, có cửa ra vào phía trước và phía sau (phần hướng Đông này ký hiệu là B). Giữa khu A và khu B có một lối ra vào nằm ở phần hướng Nam có ngăn cách tại khu vực ấy.

Phần đường đôi Lam Sơn phía trên quán B2 là phần đường một chiều hướng đi xã X, được rải nhựa bằng phẳng rộng 7m Tại phần hông bên phải của khu A quán B2, khu vực phía trong (hướng Nam) phát hiện 01(một) bộ bàn ghế, trên mặt bàn ghế phát hiện một vệt nước ướt, xung quanh đặt các ghế mây tre đan có lót đệm màu đỏ, ghế và bàn đặt ở trạng thái xô lệch (ký hiệu 1) Tại phần khu vực hướng Nam phía trước quầy lễ tân và khu vực pha chế của khu A gồm quán B2 phát hiện vệt chất màu nâu đỏ dạng máu nhỏ giọt, có kích thước các giọt 0.005m - 0,02m, kéo dài hướng vào giữa khu A và khu B. Đến khu vực B thông qua hai cửa ra vào vòng theo chiều vệt từ N - Bắc (Ký hiệu 2) Từ phần đường Đ hướng đi xã X phía trước quán B2 phát hiện vùng mảnh thủy tinh kính vỡ nằm rải rác từ mặt đường trong diện tích (6.5x7.5)m (Ký hiệu 3). Các mảnh thủy tinh màu trong suốt.

Từ vùng vết (ký hiệu là 3) theo phần đường về hướng Đông là 88,4m phát hiện trên mặt đoạn gần giao nhau với đường Q phát hiện vệt tạp chất màu nâu đỏ đọng máu nhỏ giọt, kích thước các giọt từ 0,005m - 0,02m, vệt chất phát hiện theo chiều Đ - T, vòng từ đường Đ đi Quốc lộ D, (ký hiệu 4).

Quá trình khám nghiệm thu giữ mảnh vỡ thủy tinh ở vị trí số C).

Thương tích và kết quả giám định thương tích:

Đối với Lê Khả C: Tại vùng đỉnh chẩm có 01 vết thương rách da, chảy máu, dài 20cm, bờ mép vết thương sắc gọn (Vết thương sọ não hở: Vỡ xương đỉnh 2 bên, máu tụ ngoài màng cứng đỉnh trái, khí tụ nội sọ).

Cơ quan CSĐT Công an tỉnh T trưng cầu Trung tâm Pháp y tỉnh T giám định cơ chế hình thành thương tích cho anh Lê Khả C. Ngày 31/8/2022, Trung tâm Pháp y tỉnh T có Kết luận giám định pháp y về cơ chế hình thành thương tích số 688/2022/TTPY kết luận: Tại vị trí vùng đỉnh chẩm có 01 vết thương rách da chảy máu, bờ mép sắc gọn, kích thước dài 20cm, đã khâu xử lý: Do tác động của ngoại lực; được tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn. Đối với thương tích của Lê Khả C như đã ghi nhận tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể hồi 22 giờ 30 phút ngày 11/11/2021 tại Bệnh viện đa khoa huyện T: Nếu không được xử lý y tế và can thiệp y học kịp thời thì có thể dẫn đến Lê Khả C bị tử vong. Tại thời điểm giám định pháp y về cơ chế hình thành thương tích: Không đủ chứng cứ khoa học và các dữ liệu khách quan để xác định chính xác tư thế, chiều hướng tác động và lực tác động của vật gây thương tích.

Đối với tỷ lệ thương tích của Lê Khả C, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã Quyết định trưng cầu giám định và áp dụng hết các biện pháp để đưa C đi giám định nhưng C cương quyết không chấp hành.

Kết luận giám định khác:

Tiến hành giám định các Video hình ảnh đã thu giữ được trích xuất từ camera ghi hình của quán B1, cửa hàng mua bán điện thoại di động Shop FPT và hệ thống camera ghi hình của Công an thị trấn T; xác định nội dung hình ảnh trong video không bị cắt ghép, chỉnh sửa.

Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu; xử lý vật chứng:

Các đồ vật, tài liệu đã thu giữ gồm: Các mảnh vỡ thuỷ tinh có kích thước khác nhau (các mảnh cốc vỡ); 01 (một) gậy bằng kim loại (dạng gậy đánh bóng chày) màu xanh, cán màu đen, dài 75cm. Các vật chứng hiện đang tạm giữ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa chờ giải quyết theo luật định.

Đối với 02 (hai) dao tự chế, 02 (hai) gậy gỗ; Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm vật chứng, tuy nhiên chưa phát hiện và chưa thu giữ được.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter 36D1 - xxx và Honda Wave 36D1 - xxx, Q mượn từ Nguyễn Trung T4 và Đỗ Viết H6; tuy nhiên T4 và H6 không biết việc Q cùng đồng bọn sử dụng xe máy làm phương tiện để phạm tội, Cơ quan điều tra không tiến hành thu giữ.

03 đĩa DVD màu vàng lưu giữ các đoạn video hình ảnh đã thu giữ được trích xuất từ camera ghi hình của quán B1, cửa hàng mua bán điện thoại di động Shop FPT và hệ thống camera ghi hình của Công an thị trấn T sẽ được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 105/CT-VKS-P2 ngày 27/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá truy tố Lê Văn T tội “Giết người” “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm n khoản 1 Điều 123 và điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự; Lê Hoàng G, Thiều Quang N, Đoàn Văn Q, Lê Khả C tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.

Ngày 28/11/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa để điều tra bổ sung, với nội dung: Giám định tổn hại sức khỏe đối với Lê Khả C.

Ngày 30/11/2022 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa ban hành công văn số 393/VKS-P2 giữ nguyên cáo trạng số 105/CT-VKS-P2 ngày 27/10/2022 Ngày 30/01/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa ban hành quyết định trưng cầu giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với Lê Khả C.

Tại Kết luận giám định số 359/2023/TgT ngày 02/3/2023 của Trung tâm P kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể gây nên đối với Lê Khả C là 21%.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 57; khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Lê Văn T: 09-10 năm tù về tội “Giết người”, 02 năm - 02 năm 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, tổng hợp hình phạt hai tội buộc Lê Văn T phải chấp hành hình phạt chung là 11-12 năm 06 tháng tù.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự (Điều 91,101,102 Bộ luật hình sự đối với Thiều Quang N, Lê Khả C). Xử phạt: Đoàn Văn Q 24-30 tháng tù; Lê Hoàng G 18-24 tháng tù, Thiều Quang N 18-24 tháng tù; Lê Khả C 18-24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Tịch thu tiêu hủy vật chứng là gậy bóng chày và các mảnh thủy tinh vỡ hiện đang tạm giữ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa.

- Quan điểm của Luật sư bào chữa cho Lê Văn T: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa Lê Văn T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đến cơ quan Công an đầu thú, bồi thường cho người bị hại và người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo là lao động chính trong gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử bị cáo ở mức thấp như đề nghị của Đại diện viện kiểm sát - Quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho các bị cáo C, Nam: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội đến Công an đầu thú, vai trò của các bị cáo không đáng kể, có nhân thân tốt, khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt mỗi bị cáo 18 tháng tù cho hưởng án treo.

- Các bị cáo: Thừa nhận hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Lê Khả C đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Lê Văn T

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các quyết định tố tụng, và hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá, của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Tại phiên toà các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Do mâu thuẫn từ trước, khoảng 20h00’ ngày 11/11/2021, Lê Văn T, Lê Khả C, Đoàn Văn Q, Lê Hoàng G, Thiều Quang N và Ngô Đức L1 (đã bỏ trốn và bị truy nã) có hành vi dùng dao tự chế, gậy bóng chày và gậy gỗ đuổi đánh Lê Xuân T8 trong quán B2, sau đó tiếp tục đuổi đánh T8 trên đường đôi thuộc khu D, thị trấn T, huyện T gây mất an ninh trật tự tại khu phố khoảng 10 phút, hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Gây rối trật tụ công cộng”.

[3] Trong quá trình các bị cáo đuổi đánh Lê Xuân T8, Lê Văn T dùng dao tự chế (dao phóng lợn) chém Lê Xuân T8, nhưng lại trúng vào vùng đỉnh chẩm của Lê Khả C, hậu quả Lê Khả C bị tổn hại 21% sức khỏe.

Lê Văn T nhận thức rõ việc dùng dao tự chế (dao phóng lợn - hung khí nguy hiểm) chém vào đầu người khác - là vùng trọng yếu trên cơ thể, khi dùng hung khí tác động có thể dẫn đến chết người, nhưng do coi thường pháp luật và tính mạng người khác bị cáo vẫn thực hiện hành vi, mặc dù khi dùng dao chém bị cáo nhằm vào Lê Xuân T8, nhưng quyền bất khả xâm phạm tính mạng và sức khỏe của Lê Xuân T8 và Lê Khả C đều được pháp luật bảo vệ. Sau khi chém nhầm Lê Khả C, Lê Văn T bỏ mặc và tiếp tục cùng đồng phạm tiếp tục lùa đuổi đánh anh Lê Xuân T8. Lê Khả C không chết là nằm ngoài ý thức chủ quan của Lê Văn T, do Lê Khả C được cấp cứu kịp thời. Hành vi của Lê Văn T đã cấu thành tội “Giết người”. Giữa bị cáo và người bị hại không có mâu thuẫn, và cũng không có mâu thuẫn với anh Lê Xuân T8, chỉ vì Ngô Đức L1 cho rằng trước đây bị anh Lê Xuân T8 đánh nên đã rủ các bị cáo đi đánh trả thù. Hành vi dùng dao chém vào đầu Lê Khả C thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường tính mạng người khác, có tính chất côn đồ. Hành vi nói trên của Lê Văn T đã cấu thành tội “Giết người” .

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa truy tố Lê Văn T tội “Giết người” và tội “Gây rối trật tụ công cộng”; Lê Hoàng G, Thiều Quang N, Đoàn Văn Q, Lê Khả C tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 và điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự là chính xác.

[4] Tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm tới tính mạng người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình trị an xã hội, vì vậy cần xử lý nghiêm để giáo dục riêng, đồng thời phòng ngừa chung.

[5] Vai trò của các bị cáo: Lê Văn T phải chịu trách nhiệm độc lập về hành vi “Giết người”. Về hành vi gây rối trật tự công cộng Ngô Đức L1 là người khởi xướng, sau đó gọi điện cho Q rủ đi đánh Lê Xuân T8, Q giữ vai trò thứ hai, các bị cáo còn lại có vai trò ngang nhau đối với hành vi gây rối trật tự công cộng.

[6] Tình tiết tăng nặng: Lê Văn T năm 2019 đã bị kết án chưa được xóa án tích lần này phạm tội thuộc trường hợp tái phạm - tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, Lê Văn T tự nguyện bồi thường cho người bị hại, người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, sau khi phạm tội các bị cáo đã đến Công an đầu thú - là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo Lê Khả C, Thiều Quang N khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi Thiều Quang N khi phạm tội 17 tuổi 10 tháng 13 ngày, Lê Khả C 17 tuổi 11 tháng 25 ngày). Khi quyết định hình phạt giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành người tốt. Lê Hoàng G vai trò thứ yếu trong vụ án là người điều khiển xe mô tô đèo Q và L1 từ nhà Q đến quán B không tham gia lùa đuổi, đánh nhau. Đoàn Văn Q bố mẹ đẻ đều đã chết, vợ bỏ đi hiện nay đang nuôi 02 con nhỏ, con lớn sinh năm 2014 bị bệnh nặng, con nhỏ sinh năm 2016, bị cáo là người giữ vai trò thứ hai đối với các bị cáo bị cáo bị truy tố về hành vi gây rối trật tự công cộng (sau Ngô Đức L1 đã bỏ trốn), nếu buộc bị cáo cách ly khỏi xã hội sẽ ảnh hưởng đến việc chăm sóc nuôi dưỡng hai con nhỏ trong đó có một con bị bệnh tâm thần. Các bị cáo G, N, Q, C có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội và có nơi cư trú rõ ràng, nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội mà giao các bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục cũng đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt, đồng thời phù hợp quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự, như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tại phiên tòa là có căn cứ.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo T, N, G đã tự nguyện bồi thường cho Lê Khả C 12.000.000đ (mỗi bị cáo 4.000.000đ), người bị hại không có yêu cầu gì về phần bồi thường.

[9] Về vật chứng: Gậy bóng chày các bị cáo dùng đánh nhau, các mảnh vỡ thủy tinh thu giữ tại hiện trường không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Lê Văn T phạm tội “Giết người” và tội “Gây rối trật tự công cộng”. Các bị cáo Đoàn Văn Q, Lê Hoàng G, Thiều Quang N, Lê Khả C phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

* Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 54; Điều 57; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23; khoản 1 mục I Danh mục án phí, lệ phí Toà án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

* Xử phạt: Lê Văn T 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người” 02 (hai) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, tổng hợp hình phạt hai tội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt hai tội là 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 30/11/2021.

* Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

* Xử phạt:

- Đoàn Văn Q: 25 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 50 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Lê Hoàng G: 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

* Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, Điều 101, Điều 102; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

* Xử phạt:

- Thiều Quang N: 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Lê Khả C: 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Thiều Quang N, Lê Khả C, Lê Hoàng G và Đoàn Văn Q cho Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

* Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gậy bóng chày, các mảnh vỡ thủy tinh đang tạm giữ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa ( về số lượng, khối lượng, đặc điểm) theo biên bản giao nhận vật chứng số 14/2023/TV-CTHADS ngày 27/10/2023 giữa Phòng PC01 Công an tỉnh Thanh Hôas và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Nếu thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

* Trách nhiệm dân sự:

Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong phần bồi thường. Công nhận các bị cáo đã bồi thường cho người bị hại 12.000.000đ.

* Án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người và gây rối trật tự công cộng số 98/2023/HS-ST

Số hiệu:98/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về