TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 803/2022/HS-PT NGÀY 11/11/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 11 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 615/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Lại Văn B phạm tội “Giết người”, do có kháng cáo của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 166/2022/HSST ngày 27 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
* Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:
Lại Văn B , sinh năm 1977 tại thành phố Hà Nội; nơi ĐKHKTT và nơi ở: thôn Trại T, xã Hoàng D, huyện Chương M, thành phố Hà Nội; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 3/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc:
Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lại Văn T và bà Hoàng Thị Đ; vợ là Tưởng Thị T1; có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/5/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội; Có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo Lại Văn B :
+ Luật sư Đinh Thị Kim T2 - Công ty luật TNHH MTV Bảo T3, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Địa chỉ: số 184 Trần Quang K, phường Lý Thái T4, quận Hoàn K, thành phố Hà Nội; Có mặt.
+ Ông Nguyễn Đức T5 – Luật sư Công ty TNHH Á Châu V thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Địa chỉ: CT3 – 22.7 Chung cư Iris G, số 30 Trần Hữu D, phường Cầu D, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội; Vắng mặt có đơn xin hoãn phiên tòa.
* Người bị hại có kháng cáo: Anh Hoàng Văn P, sinh năm 1974; nơi ĐKHKTT: thôn Trại T, xã Hoàng D, huyện Chương M, thành phố Hà Nội; Có mặt.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Luật sư Nguyễn Trọng T4 và luật sư Nguyễn Tiến H1 – Công ty luật TNHH Hà V thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Địa chỉ: Tầng 25, tòa nhà ICON4, số 243A Đê La T, phường Láng T6, quận Đống Đ, thành phố Hà Nội; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 29/5/2021, Lại Văn B đến chơi nhà ông Phan Văn G (sinh năm 1966; ở cùng thôn). Khi B đến nơi thì tại sân nhà ông G có ông Phan Văn D, sinh năm 1961 và ông Hoàng Văn P1, sinh năm 1974 (cùng trú tại thôn Trại T, xã Hoàng D, huyện Chương M) đang ngồi trên bộ ghế trường kỷ nói chuyện. B đi vào cùng ngồi uống nước nói chuyện với ông Dvà ông P. Một lúc sau, có ông Hoàng Đức S (sinh năm 1966) cũng là hàng xóm của ông Dđến chơi. Trong quá trình ngồi nói chuyện, giữa B và ông P xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cãi cự. Thấy vậy, ông S can ngăn B và ông P nhưng không được nên bỏ đi về, còn B với ông P tiếp tục có lời qua tiếng lại với nhau. Do bị ông P thách thức nên B đã đi ra phía sau bàn uống nước lấy 01 con dao nhọn chuôi gỗ (dài khoảng 30cm, bản rộng nhất 06cm, bản hẹp nhất 04cm) cầm ở trên tay trái và tay phải cầm 01 chiếc chày gỗ (có chiều dài 29cm, đường kính to nhất là 3,5cm) đi đến đứng đối diện với ông P khi ông P đang ngồi trên ghế trường kỷ. B dùng tay trái (tay thuận của B) câm dao chém 01 nhát từ trên xuông dưới, ông P ngửa người ra sau để tránh thì bị lưỡi dao chém trúng vào phần bụng. Sau đó, ông P bỏ chạy thì B cầm dao đuổi theo và chém xượt vào phần bắp tay gần bả vai bên phải của ông P. Khi ông P chạy ra đến cổng, do tay áo bị mắc vào then cổng nến ông P đã bị ngã ngửa xuống đường. Lúc này, B chạy đến đứng cạnh chân trái của ông P cầm dao chém 02 nhát về phía ông P. Ông P giơ tay trái lên đỡ thì trúng vào khuỷu tay, 04 ngón bàn tay trái và cẳng tay phải. Thấy vậy, ông P nói “B ơi, tao xin mày”. B nói “Hôm nay, tao giết mày”, đồng thời B cầm dao chém liên tiếp nhiều nhát vào phần mặt, cổ, vai của ông P. Sau đó, B lấy chiếc xèng có lưỡi B kim loại cũ hoen rỉ, kích thước (12x18)cm, cán B tre dài 55cm, đường kính 4,5cm đang dựng ở cổng nhà ông G vụt 02 nhát vào cẳng chân phải của ông P. Lúc này, ông S đi ra nói “Nó chết rồi mà mày còn định chém chết nó à”. Nghe vậy, B liền vứt dao, chày gỗ, xẻng tại hiện trường rồi bỏ đi. Ông P được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện Thanh O. Do thương tích nặng nên Bệnh viện đa khoa huyện Thanh O chuyển ông P đến Bệnh viện Quân y 103 để điều trị trong tình trạng: vết thương phần mềm cổ phải, cung mày trái, 1/3 dưới cắng chân phái, 1/3 dưới cắng tay trái, thành bụng trái, vết thương mặt trước 1/3 cẳng chân phái, vết thương 1/3 dưới mặt sau cẳng tay phải, gãy hở xương quay phải, đứt gân duỗi ngón I, II, III, IV dạng dài ngón I tay trái, vết thương đốt 2 - 3 ngón II, III, IV, V, đứt gân duỗi ngón III, IV, V, gãy hở đốt 2 ngón III, IV, V tay trái, vết thương mặt sau khớp khuỷu trái, mất xương đài quay, mỏm khuỷu trái, gãy hở lồi cầu ngoài, đứt cơ tam đầu tay trái do bị chém giờ thứ 4.
Ngày 31/5/2021, Lại Văn B đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chương M đầu thú và khai: Do bị ông P dùng gạch ném trúng vào mạn sườn phải của B nên B mới dùng dao chém ông P. Quá trình dượt đuổi, khi B dùng tay để kéo cổng thì bị ông P dùng chiếc xẻng vụt vào cánh tay trái của B .
Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể Lại Văn B ngày 31/5/2021 khi ra đầu thú xác định: Tại mạn sườn bên phải có 01 vết bầm tím kích thước đường kính 3,5cm. Bên trong vết bầm tím có 02 vết rách da (trầy xước) đã đóng vẩy, đều dài 01cm. 01 vết bầm tím phía sau cánh tay trái (không rách da) hình tròn, đường kính 2,5cm.
Vật chứng vụ án: Quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra thu giữ những vật chứng và tài sản sau:
- 01 (một) con dao (loại dao thái, đầu B ), lưỡi dao dài 21cm, bản rộng nhất 06cm, bản hẹp nhất 04cm, chuôi dao B gỗ dài 10cm.
- 01 (một) chiếc chày B gỗ hình trụ, dài 29cm, đầu to có đường kính 3,5cm, đầu nhỏ có đường kính 2,5cm.
- 01 (một) chiếc xẻng có lưỡi B kim loại, cũ hoen rỉ, có KT (12x18)cm, cán băng tre dài 55cm, đường kính 4,5cm.
Tại bản Kết luận giám định pháp y thương tích số 716/TTPY ngày 30/6/2021 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Hà Nội, kết luận đối với thương tích của Anh Hoàng Văn P như sau:
+ Vết thương phần mềm đuôi cung mày trái dài 01cm, vết thương phần mềm vùng cổ phải dài 10cm, vết thương phần mềm vùng vai phải dài 02cm, vết thương phần mềm thành bụng trước dài 04cm, vết thương mặt sau đốt 2 ngón III, IV, V bàn tay trái dài 01cm bờ mép gọn, chảy máu rỉ rả, không có dị vật.
+ Vết thương mặt sau 1/3 dưới cẳng tay phải dài 05cm, vết thương mặt sau khuỷu tay trái dài 06cm, vết thương mặt trước cổ tay trải dài 02cm bờ mép gọn, lộ cơ, chảy máu rỉ rả, không có dị vật.
+ Không duỗi được cổ tay, ngón tay phải.
+ Không duỗi được đốt 3 các ngón III, IV, V bàn tay trái.
+ Mạch quay trái bắt rõ, mạch trụ trái không rõ.
+ Mạch quay trụ phải bắt rõ.
- Chẩn đoán: Vết thương phần mềm cố phải, cung mày trái, 1/3 dưới cẳng chân phải, 1/3 dưới cẳng tay trái, thành bụng trái, vết thương 1/3 dưới mặt sau cẳng tay phải, gãy hở xương quay phải, đứt gân duỗi ngón I, II, III, IV dạng dài ngón I tay trái, vết thương đốt 2-3 ngón II, III, IV, V, đứt gân duỗi ngón III, IV, V, gãy hở đốt 2 ngón III, IV, V tay trái. Vết thương mặt sau khớp khuỷu trái, mất xương đài quay, mỏm khuỷu trái, gãy hở lồi cầu ngoài, đứt cơ tam đầu tay trái do bị chém giờ thứ 4.
- Cận lâm sàng:
+ Xquang khớp khuỷu thẳng, nghiêng hoặc chếch ngày 29/5/2021: Hình ảnh gãy mỏm trên lồi cầu ngoài xương cánh tay trái.
+ Xquang xương cẳng tay thẳng, nghiêng ngày 29/5/2021: Hình ảnh gãy 1/3 dưới xương quay tay phải. Xương cẳng tay trái hiện tại không thấy bất thường.
+ Xquang xương bàn ngón tay thẳng, nghiêng hoặc chếch ngày 29/5/2021: Hĩnh ảnh gãy đầu xa đốt 2 ngón IV bàn tay trái.
+ Khám chuyên khoa Mắt ngày 03/6/2021:
- Thị lực: Mắt phải 8/102; Mắt trái 1/10 - kính lỗ 2/10.
+ Đo khúc xạ: Mắt phải - 0,5/-1.5 x 4; Mắt trái không đo được do bệnh nhân phối hợp kém.
+ Mắt trái: Giác mạc trong, tiền phòng sâu, đồng tử tròn, thủy tỉnh thể trong, dịch kính trong, võng mạc áp, thị gai hồng, không phù.
+ Mắt phải: Giác mạc trong, tiền phòng sâu, đồng tử tròn, thủy tỉnh thể trong, dịch kính trong, võng mạc áp.
+ Chẩn đoán: Mắt trái thị lực giảm không tương xứng với tình trạng của mắt (bệnh nhân hợp tác kém). Mắt phải bình thường.
+ Để nghị sau khi ổn định tình trạng toàn thể thì kiểm tra lại mắt.
- Xử trí:
- Phẫu thuận cắt lọc, khâu vết thương, nối gân, kết xương, cố định bột cánh tay hai bên;
- Kiểm tra thấy vết thương vùng cổ phải kích thước 07cm x 01cm x 0,8cm chảy máu mép vết thương. Tiến hành cắt lọc khâu vết thương.
- Kiểm tra thấy vết thương thành bụng trái kích thước 01cm x 0,5cm x 04cm vết thương sắc. Tiến hành cắt lọc khâu vết thương.
- Kiểm tra thấy vết thương mặt sau 1/3 dưới cẳng tay phải. Kích thước 05cm x 02cm x 02cm đứt gân duỗi ngón I, II, III, IV dạng dài ngón I. Vết thương thông với ổ gãy rạn 1/3 dưới xương quay phảỉ. Tiến hành cắt lọc khâu nối gân theo phương pháp kessler cải biên. Kiểm tra cầm máu, đặt dẫn lưu, đóng vết mổ 02 lớp. Cố định bộ cánh tay phải.
- Kiểm tra vết thương kích thước 01cm x 01cm mặt trước cẳng chân phải. Tiến hành cắt lọc khâu vết thương 01 lớp.
- Kiểm tra vết thương phần mềm mặt trước trong 1/3 dưới cẳng tay trái kích thước 0,5cm x 02cm. Tiến hành cắt lọc khâu vết thương.
- Kiểm tra thấy vết thương bàn tay trái: vết thương phần mềm đốt 2, 3 ngón II, vết thương khớp liên đốt 2-3 ngón III đứt gân duỗi, vết thương đốt 2,3 ngón IV đứt gân duỗi và gãy đốt 2 ngón IV, vết thương gãy đốt 2,3 ngón V và đứt gân duỗi ngón V (kích thước các vết thương dàỉ 01cm). Tiến hành cắt lọc vết thương nối gân duỗi các ngón, găm đinh kirschner ngón V.
- Kiểm tra vết thương kích thước 09cm x 06cm x 2,5cm ở mặt sau khớp khuỷu trái, mẻ lồi cầu ngoài, mất xương đài quay và mỏm khuỷu trái, đứt cơ tam đầu. Tiến hành bơm rửa oxy già và betadin. Khâu nối cơ tam đầu. Đóng vết mổ 02 lớp. Cố định bột cánh - bàn tay trái.
- Cố định máng bột sâu cánh bàn tay phải, trái: Bệnh nhân nằm ngửa. Đặt 01 máng bột mặt trước cánh bàn tay phải và trái tư thế khuỷu gấp 90 độ, cổ tay duỗi tối đa. Trong và sau thủ thuật, bệnh nhân ổn định.
V PHẦN KHÁM GIÁM ĐỊNH 1. Tổng quát: Bệnh nhân khai đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn khan, thị lực mắt trái giảm, nhìn mờ so với trước khi bị dánh, đêm ngủ ít, đau vùng tổn thương.
2. Thương tích:
- Khám ngày 31/5/2021:
+ 01 vết thương vùng trên cung mày trái kích thước 01cm x 0,2cm, không khâu, đóng vảy máu khô trên diện sây sát da nông kích thước 03cm x 03cm.
+ Bầm tím quanh mắt trái, mắt trái nhìn mờ, đồng tử hai bên 3mm, phản xạ ánh sáng (+).
+ 01 sây sát da nông vùng cánh mũi bên trái kích thước 1,5cm x 01cm, đóng vảy máu khô (Không được ghi nhận trong Bệnh án - Không cho điểm tỷ lệ tổn hại sức khỏe).
+ 01 sây sát da vùng thái dương trái kích thước 02cm x 0,2cm đóng vảy máu khô trên nền sưng nề kích thước 06cm x 05cm, ấn đau (Không dược ghi nhận trong Bệnh án - Không cho điểm tỷ lệ tổn hại sức khỏe).
+ 01 vết thương dọc theo vùng cổ phải kích thức 10cm x 0,2cm, còn chỉ khâu, vết thương khô.
+ 01 vết thương vùng vai phải kích thước 04cm x (0,1-0,2)cm, có vuốt đuôi chuột, còn chỉ khâu, vết thương khô.
+ 03 vết sây sát da vùng vai phải kích thước 01cm x 0,2cm, 09cm x 0,1cm và 02cm x 0,1cm, đóng vảy máu khô (Không dược ghi nhận trong Bệnh án - Không cho đỉểm tỷ lệ tổn hại sức khỏe).
+ 01 vết thương vùng bụng bên trái kích thước 06cm x 0,2cm, còn chỉ khâu, vết thương khô.
+ Nẹp bột cánh - cẳng - bàn tay hai bên.
+ 01 vết thương mặt trước trong 1/3 dưởỉ cẳng chân phải kích thước 03cm x 0,2cm còn chỉ khâu, vết thương khô.
+ 04 vết sây sát da nông mặt vùng cổ, bàn chân trái kích thước 01cm x 0,5cm, 1,5cm x 0,3cm, 03cm x (0,5 - l,5)cm và 0,7cm x 0,7cm đang đóng vảy máu khô (Không được ghi nhận trong Bệnh án - Không cho điểm tỷ lệ tồn hại sức khỏe).
- Khám ngày 24/6/2021:
+ 01 vết thương vết mổ mặt sau ngang khuỷu tay trải kích thước 11cm x (0,3 - 0,4)cm, còn chỉ khâu, vết thương khô. Hạn chế gấp duỗi khuỷu tay trái.
+ 01 vết thương mặt trước trong cổ tay trái (1/3 dưới cẳng ty trái) kích thước 03cm x 0,3cm, còn chỉ khâu, vết thương khô.
+ 01 sẹo sây sát da vùng gan bàn tay trái kích thước 2,5cm x (0,3-01)cm, hồng, phẳng (Không được ghi nhận trong Bệnh án - Không cho điểm tỷ lệ tổn hại sức khỏe).
+ 01 sẹo sây sát da mặt trước trong 1/3 dưới cánh tay trái gần khuỷu tay trái kích thước 2,5cm x (0,2 - 0,7)cm, hồng, phẳng (Không được ghi nhận trong Bệnh án - Không cho điểm tỷ lệ tổn hại sức khỏe).
+ 01 vết thương mặt mu đốt 3 ngón II tay trái kích thước 01cmx 0,2cm, còn chỉ khâu, vết thương khô.
+ 01 vết thương vết mổ mặt mu đốt 2 ngón IV tay trái kích thước 04cm x 0,2cm, còn chỉ khâu, khô.
+ 01 vết thương vết mổ mặt mu đốt 2-3 ngón V tay trái kích thước 4,5cm x 0,2cm, còn chỉ khô, đầu ngón V còn đinh cố định lộ ra ngoài.
+ Tay trái hạn chế vận động khuỷu - cổ - bàn - ngón tay trái vùng mặt sau còn cảm giác tê bì, đầu ngón tay hồng ấm.
+ 01 vết thương vết mổ vùng mặt sau 1/3 giữa - dưới cẳng tay phải hình chữ Z trái kích thước 10cm x 0,3cm, còn chỉ khâu, khô. Hạn chế vận động cổ - bàn - ngón tay phải.
3. Cận lâm sàng:
- Xquang cẳng tay phảỉ thẳng nghiêng 24/6/2021: Gãy 1/3 dưới xương quay phải.
- Xquang khuỷu tay trái thẳng nghiêng ngày 24/6//2021, 29/6/2021: Mẻ lồi cầu ngoài tay trái. Gãy xương đài quay trái. Không rõ hình ảnh gãy mỏm khuỷu tay trái.
- Xquang cổ tay trái thẳng nghiêng ngày 24/6/2021: Không thấy hình ảnh tổn thương xương.
- Xquang bàn tay trái thẳng nghiêng ngày 24/6/2021: Gãy đốt 2 ngón IV tay trái. Gãy đốt 2,3 ngón V tay trái.
- Cắt lớp vi tính sọ não ngày 24/6/2021 của Trung tâm chấn đoán hình ảnh 178 Thái Hà: Hiện không thấy hình ảnh tổn thương nội sọ do chấn thương trên chụp cắt lớp vi tính.
Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu hồ sơ, khám giám định và các xét nghiệm. Căn cứ vào Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019: Quy định tỷ lệ tốn thương cơ thể sử dụng trong Giám định Pháp y, Giám định Pháp y tâm thần của Bộ Y Tế.
VI KẾT LUẬN TẠI THỜI ĐIỂM GIÁM ĐỊNH 1. Các vết thương mổ: 19%;
2. Gãy 1/3 dưới xương quay phải: 06%;
3. Mẻ lồi cầu ngoài tay trái: 03%;
4. Gãy xương đoài quay trái (đầu trên xương quay trái); 06%;
5. Gãy đốt 2 ngón IV tay trái: 01%;
6. Gãy đốt 2 ngổn V tay trái: 01%;
7. Gãy đốt 3 ngón V tay trái: 01%;
8. Hiện chưa đánh giá được hết mức độ di chứng, biến chứng của các tổn thương thị lực, đứt gân, gãy xương. Đề nghị gỉám định bổ sung sau nếu có căn cứ.
9. Nhiều khả năng các thương tích do vật tày có cạnh, vật có cạnh sắc gây nên.
Tỷ lệ tổn hại sức khoẻ: 33%. Tính theo phương pháp cộng lùi.
Tại Kết luận giám định pháp y thương tích bổ sung số 1127/TTPY ngày 11/11/2021 của Trung tâm pháp y Hà Nội đối với ông Hoàng Văn P1, kết luận tại thời điểm giám định bổ sung như sau:
“ V. PHẤN KHÁM GIÁM ĐỊNH 2. Thương tích:
- Các vết thương - vết mổ hiện đã liền tốt.
- Đồng tử hai bên đều, phản xạ ánh sáng (+), thị lực nhìn bình thường.
- Cổ - bàn tay phải vận động thụ động trong giời hạn bình thường.
- Cứng các khớp liên đốt 2-3 ngón II, III, IV, V tay trái.
- Hạn chế vận động gấp khuỷu tay trái.
- Cổ tay trái vận động trong giới hạn bình thường.
- Không có dấu hiệu tổn thương thần kinh ngoại biên 2 tay.
3. Cận lâm sàng:
- Xquang khuỷu tay trái thẳng nghiêng: Gãy xương đài quay trái. Mẻ lồi cầu ngoài xương cánh tay trái.
- Xquang cẳng tay trái thẳng nghiêng: Không thấy hình ảnh tổn thương xương.
- Xquang cẳng tay phải thẳng nghiêng: Theo dõi gãy 1/3 giữa xương quay phải.
- Xquang bàn tay trái thẳng nghiêng: Theo dõi gãy đốt 2 ngón IV bàn tay trái, gãy đốt 2,3 ngón V bàn tay trái.
VI KẾT LUẬN TẠI THỜI ĐIỂM GIÁM ĐỊNH BỔ SUNG 1. Giữ nguyên mục 1 2, 3, 4, 5, 6, 7, 9 phần VI tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 716/TTPY ngày 30/6/2021 của Trung tâm pháp y Hà Nội.
2. Bô sung phần VI tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 716/TTPYngày 30/6/2021 của Trung tâm pháp y Hà Nội:
- Cứng khớp liên đốt 2 -3 ngón II bàn tay trái: 03%;
- Cứng khớp liên đốt 2 - 3 ngón III bàn tay trái: 01%;
- Cứng khớp liên đốt 2 - 3 ngón IV bàn tay trái: 01%);
- Cứng khớp liên đốt 2 - 3 ngón V bàn tay trái: 01%;
Tỷ lệ tổn hại sức khoẻ cả 2 lần gỉám định: 37%. Tính theo phương pháp cộng lùi”.
Tại Kết luận giám định ADN số: HT 203.21/PY-XNSH ngày 15/6/2021 của Viện pháp ý Quân đội - Bộ Quốc phòng, kết luận: "... Dấu vết trên con dao và trên tăm bông quệt chất dịch màu nâu thu tại hiện trường (vị trí số 3) có sinh phẩm của người, có ADN trùng khớp với ADN từ mẫu niêm mạc má của Anh Hoàng Văn P”.
Tại Kết luận giám định pháp y thương tích số 1131/TTPY ngày 12/11/2021 của Trung tâm pháp y Hà Nội đối với Lại Văn B, kết luận:
“1. vết biến đổi sắc tố da vùng mạn sườn phải: 0,5% 2. Chạm thương phần mềm vùng cánh tay trái không còn sưng nề bầm tím, không ảnh hưởng vận động.
Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 không có chương mục nào quy định cho điểm tỷ lệ tổn hại sức khoẻ đối với chạm thương này.
3. Cơ chế hình thành thương tích: Chạm thương và thương tích do vật tày, tày có cạnh gây nên.
Tỷ lệ tổn hại sức khoẻ: 01 % (Một phần trăm - Đã được làm tròn)”.
Đối với thương tích của B, ông P không thừa nhận việc mình đã gây nên những thương tích nêu trên như lời khai của B. Ngoài lời khai của B ra thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh ông P là người đã gây nên những thương tích của B . Do đó, không đủ cơ sở để xác định ông P gây thương tích cho B .
Trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, chị Tưởng Thị T1 (là vợ của bị cáo Lại Văn B ) đã tự nguyện bồi thường số tiền 20.000.000 đồng, ông P chưa nhận số tiền trên và sẽ yêu cầu bồi thường cụ thể tại phiên tòa.
Cáo trạng số 58/CT-VKS-P2 ngày 21/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố Lại Văn B về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 166/2022/HSST ngày 27/5/2022, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Lại Văn B phạm tội “Giết người”.
Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 57 Bộ luật hình sự xử phạt Lại Văn B 12 năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/5/2021.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định thông báo về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 08/6/2022 bị cáo Lại Văn B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 01/6/2022 bị hại ông P kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Lại Văn B và tăng mức bồi thường thiệt hại để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bị hại.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Lại Văn B nhờ luật sư Đinh Thị Kim T2 trình bầy nội dung kháng cáo. Cụ thể: do bị hại là ông P và bị cáo có lời qua tiếng lại, ông P thách thức bị cáo trước nên bị cáo bị kích động vì vậy đã gây ra thương tích cho ông P như nội dung bản án sơ thẩm đã quy kết. Sau khi có bản án sơ thẩm bị cáo đã rất ăn năn, hối cải; nay gửi lời xin lỗi đến ông P và gia đình; bị cáo đã tác động gia đình vay mượn để bồi thường thêm cho ông P 120 triệu đồng là đầy đủ 160.500.000 đồng như bản án sơ thẩm đã quyết định, đóng án phí dân sự và hình sự sơ thẩm vì hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, bị cáo là lao động chính nay lại bị đi tù. Vì vậy kính mong tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về giúp gia đình, vợ con.
Người bào chữa cho bị cáo xác định bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đã bồi thường xong cho người bị hại sau khi có bản án sơ thẩm; sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo rất khó khăn vì vậy đề nghị khoan hồng cho bị cáo, áp dụng Điều 54 cho bị cáo được giảm nhẹ hưởng mức án dưới khung hình phạt.
Người bị hại ông Hoàng Văn P1 nhờ hai luật sư bảo vệ cho mình tại phiên tòa trình bày nội dung kháng cáo. Cụ thể: Yêu cầu kháng cáo tăng hình phạt và tăng mức bồi thường, Cụ thể: Bị cáo không ăn năn hối cải nhưng tại bản án sơ thẩm đã áp dụng tình tiết này là không đúng; bị cáo có tình tiết cố tình phạm tội đến cùng khi đuổi theo để chém ông P, khi ông P đã ngã nằm dưới đường mà bị cáo còn chém nhiều nhát, dùng xẻng đập ông P, việc ông P không chết là ngoài ý chí chủ quan của bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo 20 năm tù mới thỏa đáng. Về phần bồi thường thì yêu cầu bồi thường ngoài phần bản án đã tuyên là 306 triệu bao gồm: tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe là 88 triệu; tiền mất thu nhập thực tế từ 19/5/2021 đến nay trong 12 tháng/06 triệu/tháng là 72 triệu đồng cho bị hại và vợ bị hại phải chăm sóc; ngoài ra còn lại là tiền tổn thất tinh thần.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội kết luận:
Kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt và tăng mức bồi thường của người bị hại đều làm trong hạn luật định nên cần được chấp nhận để xét.
Về hành vi phạm tội của tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết, tại phiên tòa bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi của mình đúng như bản án đã xác định; Người bị hại cho rằng cần áp dụng thêm tình tiết “phạm tội đến cùng” là không có căn cứ để chấp nhận.Bị cáo có nhận thức hạn chế, phạm tội có tình chất côn đồ, sau khi phạm tội đã ra đầu thú, ăn năn hối cải, trước khi xét xử sơ thẩm đã bồi thường cho bị hại 40 triệu đồng; nay bị cáo đã tác động gia đình bồi thường đủ 160.500.000 đồng như bản án đã quyết định nên có đủ điều kiện để được hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng bản án sơ thẩm đã phạt bị cáo có phần nghiêm khắc. Nay đề nghị áp dụng Điều 54 để giảm hình phạt cho bị cáo; không chấp nhận nội dung kháng cáo của người bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng:
Về hành vi và các quyết định của cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự: Các Luật sư và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Kháng cáo của bị cáo và người bị hại trong hạn luật định được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Các tài liệu do người bị hại xuất trình là các tại liệu liên quan đến việc khám chữa bệnh nên cần được xem xét.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét kháng cáo về hình phạt của bị cáo Lại Văn B :
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lại Văn B tiếp tục thừa nhận do mâu thuẫn lời qua tiếng lại giữa bị cáo và bị hại nên bị cáo đã không làm chủ được, bực tức và tấn công bị hại; bị cáo xác định những thương tích của ông P là do bị cáo gây ra. Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xác định: Khoảng 09 giờ ngày 29/5/2021, tại nhà ông Phan Văn G ở thôn Trại T, xã Hoàng D, huyện Chương M, Hà Nội đã xảy ra mâu thuẫn cãi vã giữa Lại Văn B và ông Hoàng Văn P1. Do bị ông P thách đố nên B đã lấy 01 con dao có chuôi dao B gỗ, lưỡi dài 21cm, bản rộng nhất 06cm, bản hẹp nhất 04cm và 01 chiếc chày gỗ có chiều dài 29cm, đường kính to nhất là 3,5cm tại nhà ông G rồi cầm trên tay trái xông đến chém một nhát trúng vào phần bụng của ông P. Sau khi ông P bỏ chạy và bị ngã ra đường, B đã đuổi theo rồi dùng dao chém liên tiếp vào phần đầu, cổ, vai, tay và dùng xẻng vụt vào chân của ông P làm ông P bị vết thương phần mềm cổ phải, cung mày trái, 1/3 dưới cẳng chân phải, 1/3 dưới cẳng tay trái, thành bụng trái, vết thương mặt trước 1/3 cẳng chân phải, vết thương 1/3 dưới mặt sau cẳng tay phải, gãy hở xương quay phải, đứt gân duỗi ngón I, II, III, IV dạng dài ngón I tay trái, vết thương đốt 2-3 ngón II, III, IV, V, đứt gân duỗi ngón III, IV, V, gãy hở đốt 2 ngón III, IV, V tay trái, vết thương mặt sau khớp khuỷu trái, mất xương đài quay, mỏm khuỷu trái, gãy hở lồi cầu ngoài, đứt cơ tam đầu tay trái. Do được đưa đi cấp cứu và điều trị kịp thời nên ông Hoàng Văn P1 không tử vong nhưng bị thương tích với tỷ lệ 37%.
Với hành vi phạm tội của bị cáo nêu trên, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo Lại Văn B đã phạm tội “Giết người”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm n, khoản 1, Điều 123 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.
Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Chỉ vì mâu thuẫn vô cớ, nhỏ nhặt với bị hại mà bị cáo đã dùng dao gây nên thương tích cho người bị hại; do được cấp cứu kịp thời nên không tử vong.
Hành vi của bị cáo Lại Văn B là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường tính mạng người khác, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của B có tính chất côn đồ. Hậu quả chết người không xảy ra là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo là đúng và đầy đủ.
Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã cân nhắc dầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo Lại Văn B đã ra đầu thú. Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị cáo Lại Văn B thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Lại Văn B đã tác động gia đình, tự nguyện bồi thường, khắc phục một phần hậu quả, do đó, bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội và không có tình tiết tăng nặng.
Do đó đã quyết định hình phạt là có phần phù hợp. Tuy nhiên sau khi có bản án sơ thẩm bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thêm cho người bị hại đầy đủ số tiền mà bản án sơ thẩm đã quyết định; đây là những tình tiết mới nên cần được áp dụng đầy đủ điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS; nộp đủ tiền án phí dân sự và hình sự sơ thẩm; điều này cũng thể hiện sự ăn năn, hối cải của bị cáo. Về quan hệ giữa bị cáo và bị hại có mối quan hệ họ hàng, tại phiên tòa bị cáo tiếp tục xin lỗi người bị hại. Do đó cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo giảm cho bị cáo một phần hình phạt mới phù hợp. Vì vậy kháng cáo của người bị hại về yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo không được chấp nhận.
Về áp nội dung kháng cáo của người bị hại cho rằng cần áp dụng thêm tình tiết cố tình thực hiện tội phạm đến cùng để tăng thêm hình phạt đối với bị cáo. Thấy như đã nhận định trên, tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo thực hiện hành vi có tính chất côn đồ; nhận thức của bị cáo có phần hạn chế; thương tích của người bị hại đã được xác định có mức độ.Vì vậy chưa có căn cứ áp dụng thêm tình tiết này đối với bị cáo nên nội dung kháng cáo này không được chấp nhận.
[2.2] Xét kháng cáo của người bị hại về tăng bồi thường thiệt hại:
Tại phiên tòa sơ thẩm, người bị hại anh Hoàng Vãn Phương yêu cầu Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường cho bị hại gồm các khoản:
- Chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút là 300.000.000 đồng.
- Thu nhập thực tế của bị hại bị mất: 20.000.000 đồng/1 tháng, tính trong 10 năm từ ngày 29/5/2021 đến ngày 29/5/2031 là: 20.000.000 đồng x 12 tháng x 10 năm = 2.400.000.000 đồng.
- Thu nhập thực tế của vợ bị hại mất từ khi bị hại bị thương cho đến thời điểm xét xử là một năm là: 10.000.000 đồng x 12 tháng = 120.000,000 đồng.
- Tiền tổn thất tinh thần: 50 lần mức lương cơ sở: 1.490.000 đồng x 50 = 74.500.000 đồng.
Tổng số là 2.894.500.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào các quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xác định thiệt hại trong trường hợp do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường nên đã chấp nhận các khoản:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị hại. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị hại xuất trình các hóa đơn tiền thuốc, tiền viện phí, tiền khám chữa bệnh, tiền thuê xe đi cấp cứu, tổng số là 74.000.000 đồng. Xét thấy, đây là những chi phí hợp lý cần chấp nhận.
- Thu nhập thực tế bị mất của người bị hại và người chăm sóc trong thời gian điều trị và chăm sóc sức khỏe. Tại phiên tòa, người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường thu nhập thực tế bị mất trong 10 năm từ 29/5/2021 đến 29/5/2031, tổng số 2.400.000.000 đồng, thu nhập bị mất của vợ trong thời gian chăm sóc bị cáo là 1 năm là: 10.000.000 đồng/tháng/12 tháng là 120.000.000 đồng. Xét thấy, tại tòa bị hại khai làm nghề lái xe gia đình và khi có khách gọi thì đi, thu nhập mỗi tháng 20.000.000 đồng nhưng không ổn định. Vợ làm nghề bán thịt lợn, theo bị hại trình bày thì thu nhập 10.000.000 đồng/1 tháng nhưng chưa có tài liệu, chứng cứ chứng minh. Thời gian điều trị ở bệnh viện 16 ngày và sau đó điều trị tại nhà, tổng cộng khoảng 1 tháng, trong thời gian đó bị hại không làm gì được, vợ bị hại cũng không đi bán hàng được, bị mất thu nhập. Ngoài lời khai ra, bị hại không cung cấp thêm tài liệu nào khác chứng minh nghề nghiệp và thu nhập thực tế của bị hại và vợ bị hại. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xét: bị hại và vợ bị hại có thu nhập thực tế nhưng không ổn định nến áp dụng mức thu nhập trung bình ở địa phương là 6.000.000 đồng/1 người/ tháng nhân với thời gian điều trị là 1 tháng để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị hại bị mất là 6.000.000 đồng và người chăm sóc là 6.000.000 đồng. Tổng số là 12.000.000 đồng.
- Tiền tổn thất tinh thần: 50 lần mức lương cơ sở: 1.490.000 đồng x 50 = 74.500.000 đồng.
Tổng số bị cáo phải bồi thường cho bị hại 160.500.000 đồng, khấu trừ 40.000.000 đồng đã nộp tại cơ quan điều tra và Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, còn phải bồi thường là: 120.500.000 đồng là có căn cứ.
Đối với thu nhập thực tế mà người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 20.000.000 đồng/tháng trong 10 năm là 2.400.000.000 đồng và 120.000.000 đồng cho người chăm sóc trong 01 năm thì giành quyền khởi kiện cho bị hại B một vụ kiện dân sự khác khi có đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh thu nhập và bị mất khả năng lao động, cần có người thường xuyên chăm sóc là có đúng quy định.
Nay người bị hại xuất trình thêm các tài liệu về việc khám chữa bệnh, tuy nhiên các tài liệu này không liên quan đến việc điều trị các thương tích do bị cáo gây ra nên không có căn cứ để chấp nhận.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xét.
Về án phí: Kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận kháng cáo của người bị hại ông Hoàng Văn P1 về tăng hình phạt và tăng mức bồi thường đối với bị cáo Lại Văn B.
2. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lại Văn B;
Sửa một phần quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm 166/2022/HSST ngày 27/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với bị cáo Lại Văn B theo hướng giảm hình phạt.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54, Điều 38, Điều 57 Bộ luật hình sự.
Xử: Phạt bị cáo Lại Văn B 11 (mười một) năm tù về tội “Giết người” Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/5/2021.
Xác nhận bị cáo Lại Văn B đã nộp 120.500.000 đồng (một trăm hai mươi triệu năm trăm nghìn) ở biên lai số 0065073 ngày 18 tháng 8 năm 2022 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội. Bị cáo đã thực hiện xong việc bồi thường theo bản án sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và án phí hình sự sơ thẩm.
2. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 803/2022/HS-PT
Số hiệu: | 803/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về