TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 78/2023/HS-ST NGÀY 11/07/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 11 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 190/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Ngô Văn Đ, sinh ngày 21/7/1998; nơi ĐKHKTT: Khu phố N, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn Lựu, sinh năm 1941 và bà Đàm Thị Khánh, sinh năm 1964; gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ tư; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/5/2022 đến nay; hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
2. Ngô Văn D, sinh ngày 20/6/1995; nơi ĐKHKTT: Khu phố N, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn Thắng, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Thu, sinh năm 1962; gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ năm; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự:
Không; bị cáo hiện tại ngoại; có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo Đ do Tòa án chỉ định: Ông Phạm Tuấn A - Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH Anh Khôi - Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
* Bị hại: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1985; trú tại: thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.
* Đại diện của bị hại: Anh Đỗ Văn T2 (chồng bị hại), sinh năm 1987; trú tại: thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Đỗ Văn T2, sinh năm 1987; trú tại: thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
2. Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1962; trú tại: Khu phố N, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
3. Bà Đàm Thị Kh, sinh năm 1964; trú tại: Khu phố N, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
4. Chị Nghiêm Thị O, sinh năm 1983; trú tại: thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
5. Anh Nguyễn Tiến Tr, sinh năm 1991; trú tại: số 9, ngõ 5 Hoàng Quốc Việt, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.
* Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1996; trú tại: xóm B, xã U, huyện Đ, thành phố Hà Nội; vắng mặt.
2. Anh Đỗ Phú Nam, sinh năm 1978; trú tại: thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
3. Chị Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1988; trú tại: Khu phố Hương Mạc, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.
4. Anh Phạm Đình Q, sinh năm 1992; trú tại: Khu phố N, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.
5. Anh Nguyễn Xuân T1, sinh năm 1999; trú tại: Khu phố N, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ ngày 30/4/2022, anh Nguyễn Xuân T1, sinh năm 1999, Ngô Văn D, sinh năm 1995 cùng có hộ khẩu thường trú (HKTT): Khu phố N, phường P, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh và anh Phạm Đình Q, sinh năm 1992, HKTT: thôn Đ, xã P, huyện T, tỉnh Bắc Giang uống bia tại quán bia Linh - Tiến (quán Linh Tiến), ở khu phố Vĩnh Thọ, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Quán Linh Tiến do Đỗ Văn T2, sinh năm 1987 và vợ là chị Phạm Thị H, sinh năm 1985, HKTT: thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh chung vốn với Nguyễn Tiến Tr, sinh năm 1991, HKTT: Số 9, ngõ 5, đường Hoàng Quốc Việt, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh để kinh doanh.
Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi thanh toán tiền để về thì D xảy ra to tiếng cãi cọ nhau với Đỗ Văn T và Nguyễn Tiến Tr về việc quán đã hết chương trình khuyến mại vẫn còn treo băng rôn khuyến mại. Sau đó anh Quyết thanh toán tiền; lúc này D chửi T, Tr “Đ...m...! nhớ mặt tao!” và điều khiển xe mô tô BKS 99B1-X chở Xuân T1 về. Khi đi đến đoạn Ủy ban nhân dân (UBND) phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, D dừng xe lại mượn điện thoại di động của Xuân T1 gọi cho Ngô Văn Đ, sinh năm 1998 (là anh họ và ở cùng khu phố với D) đến đón D. Khoảng 20 phút sau, Đ điều khiển xe mô tô BKS 99F1-X đến chỗ D thì anh Xuân T1 và anh Quyết đi về. Tại đây D nói với Đ “Mấy thằng ở quán bia đánh em” và bảo Đ chở quay lại quán Linh Tiến để “nói chuyện”. Đ đồng ý, điều khiển xe mô tô chở D đến quán Linh Tiến, đi được khoảng 100 mét, D bảo Đ dừng xe cho D đi vệ sinh. Khi đi vệ sinh, D nhặt 02 nửa cục bê tông vỡ (hỗn hợp xi măng và cát), kích thước mỗi cục khoảng (10x8x6)cm trên vỉa hè mang theo lên xe mô tô nhưng không nói cho Đ biết. Đ điều khiển xe mô tô chở D đến gần quán Linh Tiến thì D ngồi sau xe, dùng tay phải ném hai nửa cục bê tông vào biển hiệu của quán dựng trên vỉa hè, phía trước quán làm rách mặt biển, biến dạng khung và đổ biển hiệu xuống vỉa hè. Thấy D đột nhiên ném đổ biển hiệu quán Linh Tiến, Đ vội điều khiển xe mô tô bỏ chạy. Do biển hiệu hiệu quán Linh Tiến bị D ném trúng gây tiếng động lớn làm T, Tr cùng khách hàng đang ăn uống náo loạn chạy từ trong quán ra ngoài.
Sau đó T điều khiển xe mô tô BKS 99D1-X chở Tr đuổi theo phía xe mô tô Đ nhưng không kịp. Đ chở D chạy về hướng xã Văn Môn khoảng 100m không thấy có xe bám đuổi theo sau, Đ vòng xe quay lại chở D về nhà. Khi D, Đ đi ngang qua quán Linh Tiến thì chị H nhìn thấy. Thấy thế, chị H nói “chúng nó vừa chạy qua đây” và chỉ tay về phía xe mô tô Đ đang đi phía trước. T liền điều khiển xe đèo Tr đuổi theo khoảng 800m, đến gần ngã tư Me (thuộc địa phận khu phố Hương Mạc, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) thì đuổi kịp và vượt lên chặn đầu xe của Đ. Đ điều khiển xe quay đầu bỏ chạy làm xe loạng choạng nên D nhảy xuống xe chạy bộ về hướng cầu Tó, Tr cũng nhảy xuống xe, chạy bộ đuổi theo D khoảng 10m thì giữ được D. Lúc này T đỗ xe lại cùng Tr giằng co, đấm đá vào người và vùng mặt của D. Còn Đ điều khiển xe mô tô đi về hướng Vĩnh Thọ thì gặp chị H điều khiển xe mô tô đi ngược chiều đến chặn đầu xe, Đ điều khiển xe tiếp tục bỏ chạy khoảng 30m thì dừng lại nhặt một cục bê tông hình lưỡi rìu kích thước dài 16cm, một đầu kích thước (7x6,5)cm, một đầu kích thước (11x3,2)cm, nặng 1,6kg. Đ cầm cục bê tông trên tay trái, tay phải điều khiển xe mô tô vòng quay lại khu vực D, T, Tr đang giằng co. Thấy chị H đang đứng dưới lòng đường, Đ điều khiển xe mô tô đi đến cách vị trí chị H đứng khoảng 02m, thì tay trái cầm cục bê tông giơ lên cao ném theo chiều từ trái sang phải, từ trước ra sau trúng vào vùng đầu bên trái chị H gây vết thương rách da, chảy máu và làm chị H ngã nghiêng bên phải xuống mặt đường, bất tỉnh. Sau khi ném cục bê tông trúng đầu chị H, Đ điều khiển xe mô tô đi về nhà ngủ. Còn D bị T, Tr khống chế và gọi điện thoại trình báo lực lượng công an đến giải quyết. Chị H được mọi người đưa đi cấp cứu, điều trị tại các Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh, Bệnh viện E, Hà Nội từ ngày 01/5/2022 đến ngày 23/5/2022 chuyển đến Bệnh viện Quân Y 110, Bắc Ninh điều trị đến ngày 27/5/2022 Bệnh viện 110 cho về điều trị tại nhà. Ngày 04/7/2022 chị H được gia đình đưa đến Bệnh viện E điều trị ghép xương sọ đến ngày 19/7/2022 ra viện.
Khoảng 08 giờ, ngày 01/05/2022, Ngô Văn Đ đến Công an thành phố Từ Sơn đầu thú. Tại cơ quan cảnh sát điều tra Đ đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên, đồng thời tự nguyện giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda wave màu đen xanh bạc biển số 99F1-X cùng 01 đăng ký của xe mang tên chủ xe là Ngô Văn Đ.
* Khám nghiệm hiện trường: Hiện trường là đoạn đường đi trong khu dân cư Vĩnh Thọ địa phận phường Hương Mạc. Phía Bắc là hướng đường đi Đông Thọ, Yên Phong; phía Nam là đường đi Kim Thiều; phía Tây giáp tiệm bánh Tùng Anh, tiệm làm tráp cưới Hồng Phượng Hoàng Gia; phía Đông giáp nhà thờ họ Đàm. Mặt đường trải nhựa bằng phẳng rộng 6,3m. Trên mặt đường ở vị trí cách cột đèn giữa tiệm bánh Tùng Anh và tiệm làm tráp cưới 3,1m và cách mép đường bên trái về phía Tây 2,3m phát hiện đám dấu vết màu nâu đỏ kích thước (30x27)cm. Cách tâm đám dấu vết màu nâu đỏ 0,4m về phía Nam (đường Kim Thiều) và cách mép đường bên trái về phía Tây 2,55m phát hiện 01 cục bê tông hình lưỡi rìu dài 16cm, một đầu kích thước (7x6,5)cm; một đầu kích thước (11x3,2)cm, một góc cạnh của cục bê tông có bám dính chất màu nâu đỏ kích thước (2x1,7)cm, cục bê tông có khối lượng ≈ 1,6kg. Quán Linh Tiến tiếp giáp với công ty trách nhiệm hữu hạn Bệnh viện đa khoa Việt Đức và cơ sở cơ khí Tuấn A. Quán để 01 biển hiệu mang tên quán bia Linh Tiến, khung biển bằng kim loại, mặt biển bằng nilon tổng hợp, biển hiệu có kích thước (1,8x0,8x0,12)m; Tại góc bên trái biển phía Kim Thiều và cách đầu dưới của biển 14cm có dấu vết rách và xây sát kích thước (7x4)cm, khung biển bị biến dạng, phía dưới chân biển phát hiện ½ viên xi măng có kích thước (10,5x9,5x6,5)cm. Quá trình khám nghiệm hiện trường đã thu giữ:
Chất màu nâu đỏ ở trên mặt đường phía trước cửa tiệm bánh Tùng Anh được thu bằng 01 que tăm bông, niêm phong ký hiệu M1;
Cục bê tông hình lưỡi rìu ở phía trước cửa tiệm bánh Tùng Anh niêm phong ký hiệu T1. 01 nửa viên gạch xi măng ở dưới chân biển quảng cáo quán bia Linh Tiến, niêm phong ký hiệu T2.
Cân khối lượng cục bê tông hình lưỡi rìu nặng ≈ 1,6kg. Dùng que tăm bông thu mẫu chất màu nâu đỏ bám dính tại cục bê tông, niêm phong ký hiệu M2. Thu 01 biển hiệu quán Linh Tiến.
Tại biên bản xác hiện trường ngày 04/3/2023 xác định độ dài đoạn đường Đ điều khiển xe mô tô chở D bỏ chạy từ khu vực quán Linh Tiến đến khu vực ngã tư chợ Me, nơi Tr, T giằng co, đấm đá D là 800m. Hai bên đường là khu dân cư đông đúc và các điểm sinh hoạt văn hóa, chính trị công cộng. Việc D ném cục bê tông vào biển hiệu quán Linh Tiến và việc T, Tr sử dụng xe mô tô đuổi theo Đ, D đã gây náo loạn trong khu dân cư khoảng 20 phút đồng hồ cho đến khi lực lượng công an đến giải quyết. Vì vậy Đoàn TNCS, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, Trưởng khu phố Vĩnh Thọ, Trưởng khu phố Hương Mạc, Bí thư ĐTNCS Hồ Chí Minh phường Hương Mạc đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi gây mất trật tự công cộng.
Rà soát các Camera của các hộ dân sinh sống hai bên đường nơi xảy ra vụ án phát hiện hệ camera giám sát của gia đình chị Nguyễn Thị Q sinh năm 1986 có ghi lại hình ảnh, diễn biến vụ án. Cơ quan điều tra đã thu giữ lưu vào 01 USB.
Cho Ngô Văn Đ nhận dạng cục bê tông hình lưỡi rìu có bám dính máu chị H thu tại hiện trường. Đ xác nhận cục bê tông này chính là cục bê tông Đ ném trúng vào đầu chị H ngày 01/5/2022.
Đối với cục bê tông D ném vào biển hiệu quán Linh Tiến, D khai không nhớ rõ hình thù mà chỉ nhớ có cùng chất liệu với cục bê tông thu tại chân biển hiệu quán Linh Tiến trong quá trình khám nghiệm hiện trường.
* Đối với thương tích của chị Phạm Thị H:
Chị H được đưa đến Bệnh viện Việt Đức cấp cứu thì Bệnh viện quá tải không thể sắp xếp mổ cấp cứu ngay cho chị H được vì vậy gia đình chị đã đưa chị H vào Bệnh viện E cấp cứu.
Tại Giấy chứng nhận thương tích số: 87/2022/CN ngày 09/09/2022, Bệnh viện E xác nhận tình trạng thương tích của chị Phạm Thị H, khi vào viện:
“Vào viện lúc: 04 giờ 25 phút ngày 01 tháng 05 năm 2022; Ra viện ngày 23 tháng 05 năm 2022;
Chuẩn đoán:
CTSN: Tụ máu DMC bán cầu (T), G 5 Đ, VT lún sọ TD (P) Tình trạng thương tích lúc vào viện: Bệnh nhân hôn mê, G (5) đ, an thần, thở máy, sưng nề hàm mặt, băng vết thương đầu thấm máu, VT thái dương (P) KT ~ 8cm, bờ nham nhở, đồng tử bên (P) 1mm, (T) 2mm, có PXAS, phổi rõ, bụng mềm.
Tình trạng thương tích lúc ra viện: Bệnh nhân mê, G 8đ, thở T-Tube, mở khí quản; huyết động ổn định; không sốt, vết mổ khô, khuyết sọ bán cầu (T), vùng mổ phồng.
Tại Giấy chứng nhận thương tích số: 86/2022/CN ngày 09/09/2022, Bệnh viện E xác định tình trạng thương tích của chị Phạm Thị H khi vào viện:
“Vào viện lúc: 11 giờ 15 phút ngày 04 tháng 07 năm 2022.
Ra viện ngày 19 tháng 07 năm 2022.
Chuẩn đoán: Khuyết sọ bán cầu (T)/ Sau mổ CTSN Tình trạng thương tích lúc vào viện: khuyết sọ bán cầu (T), vết mổ liền sẹo, vùng mổ lõm.
Tình trạng thương tích lúc ra viện: Bệnh nhân tỉnh, thở tự nhiên, huyết động ổn định, không sốt, vết mổ khô, phổi rõ, bụng mềm”.
Tại bản Kết luận giám định pháp y thương tích số: 6486/KL-KTHS ngày 07/11/2022, Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:
“2. Kết luận:
2.1. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể:
- Sẹo thái dương - đỉnh phải, kích thước trung bình: 02% (áp dụng Nguyên tắc 1 và Mục I.2. Chương 8).
- Sẹo mổ trán - đỉnh - chẩm trái, kích thước lớn: 03% (áp dụng Nguyên tắc 1, 3 và Mục I.3. Chương 8).
- Mở khí quản: 3% (áp dụng IV.5, Chương 3).
- Khuyết xương sọ thái dương trán - đỉnh phải, được phẫu thuật, đã được phẫu thuật ghép xương, đáy chắc, đường kính > 10cm: 31% (áp dụng Ghi chú: Mục 1.5 và Mục I.5.4, Mục I.5.3. Chương I).
- Lún hai bản xương sọ vùng trán - đỉnh phải, đường kính < 3cm, điện não có ô tôn thượng tương ứng: 21% (áp dụng Mục I.4.4, Chương 1).
- Tổn thương não gây di chứng liệt tứ chi mức độ nhẹ: 61% (áp dụng Mục V.2.1. Chương 1).
- Mắt trái sang chấn đụng dập nhãn cầu, thị lực mắt trái: 7/10; mắt phải: 9/10: 5% (áp dụng Mục XV: Bảng Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do giảm thị lực và tổn thương thực thể cơ quan thị giác, Chương 10).
Áp dụng phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể quy định tại Thông tư số: 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019, xác định tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của chị Phạm Thị H tại thời điểm giám định là: 81% (Tám mươi mốt phần trăm).
2.2. Cơ chế hình thành thương tích: Thương tích tại vùng đầu của chị Phạm Thị H do vật tày gây nên.
3.3. Viên bê tông gửi giám định gây nên được các tổn thương vùng đầu của chị Phạm Thị H”.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã giải thích cho chị H cùng gia đình về việc Trưng cầu giám định sức khỏe tâm thần của chị H sau thương tích kể trên. Tuy nhiên, chị H từ chối đi giám định sức khỏe tâm thần.
* Đối với thương tích của Ngô Văn D:
Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể hồi 03 giờ 45 phút ngày 01/5/2022 tại Cơ quan CSĐT Công an thành phố Từ Sơn ghi nhận thân thể Ngô Văn D có những dấu vết:
“ Môi dưới sây sát da cáo dấu vết máu đã khô kích thước (5x1)cm; Mi mắt trên, bên trái sây sước da kích thước (4x2)cm Mi mắt trên bên phải sây xước da (3x2)cm Cằm co vết thương đã băng bó Vùng đầu phía su tai trái có vết thương sưng nề (7x4)cm Phía sau lưng cách cạp quần 9cm có vết sây sát da (4x1)cm; Mặt sau cánh tay bên phải xây xước da kích thước (5x5)cm”.
Tại Giấy chứng nhận thương tích số 124/CN ngày 25/08/2022, Bệnh viện Bạch Mai xác nhận tình trạng thương tích của Ngô Văn D khi vào viện:
“Vào viện lúc: 07 giờ 53 phút ngày 01 tháng 05 năm 2022; Ra viện lúc: 11 giờ 12 phút, ngày 02 tháng 05 năm 2022;
Chuẩn đoán: theo dõi chấn thương sọ não; Điều trị: Nội khoa, theo dõi;
Tình trạng thương tích lúc vào viện: Bệnh nhân tỉnh, không liệt, huyết động ổn, Mạch 80l/phút, huyết áp 120/80, vết thương cằm 0,5x1cm và vết thương mi mắt.
Tình trạng thương tích lúc ra viện: Tạm ổn định”.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 125/TgT ngày 30/09/2022, Trung tâm pháp Y Sở Y tế tỉnh Bắc Ninh kết luận:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định hiện tại:
- Thương tích vùng 1/3 giữa trên mi mắt phải, kích thước 2,1 cm x 0,3 cm, bờ mép đều, sẹo màu hồng nhạt, liền sẹo tốt. Áp dụng chương 8 tỷ lệ % tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục I.1. Sẹo nhỏ = 1%. Vùng mặt x 3 = 3%.
- Thương tích vùng mi trên mắt trái, cách ấn đường, kt 0,5 cm x0,3 cm, bờ mép đều, sẹo màu hồng nhạt, liền sẹo tốt. Áp dụng chương 8 tỷ lệ % tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục I.1. Sẹo nhỏ = 1%. Vùng mặt x 3 = 3%.
- Thương tích vùng cằm, tương ứng với mặt dứoi xương hàm dưới, vệt rối loạn biến đổi sắc tố da, kích thước 1 cm x 0,2 cm. Áp dụng chương 8 tỷ lệ % tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục V = 0,5% - Thương tích giữa sau 1/3 cánh tay phải, vệt rối loạn biến đổi sắc tố da, kích thước 2 cm x 1 cm. Áp dụng chương 8 tỷ lệ % tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục V = 0,5%.
- Thương tích vùng lưng phải, cách đốt sống thắt lưng L3, L4 3cm, vệt rối loạn biến đổi sắc tố da, diện 2cm x 5cm. Áp dụng chương 8 tỷ lệ % tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục V = 0,5%.
- Thương tích vùng đầu, môi dưới: Hiện tại đã khỏi, không còn tổn thương. Không đủ căn cứ khoa học tính tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể.
Sẹo thương tích vùng lưng tương ứng với đường phẫu thuật áp xe ngoài màng cứng lệch phải ngang mức L1-L5 ngày 24/6/2022. Không có mối liên quan với thương tích bị đánh ngày 01/5/2022. Không đủ căn cứ khoa học tính tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể.
2. Căn cứ thông tư số: 22/2019/TT-BYT ký ngày 28/8/2019 quy định phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần; Căn cứ phương pháp cộng tại thông tư số: 22/2019/TT-BYT tỷ lệ phần trăm tổn thuơng cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 7,31% (Bẩy phẩy ba mốt phần trăm). Làm tròn: 7% (Bẩy phần trăm).
3. Kết luận khác: Cơ chế là do tác động ngoại lực bởi vật tày”.
* Giám định ADN:
Tại bản Kết luận giám định số: 2778/KL-KTHS, ngày 31/05/2022, Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:
“1. Chất màu nâu đỏ ký hiệu M1 gửi giám định là máu người và có kiểu gen (ADN) trùng hoàn toàn với kiểu gen (ADN) của Phạm Thị H có mẫu máu gửi giám định.
2. Chất màu nâu đỏ ký hiệu M2 gửi giám định là máu người, không phân tích được kiểu gen (ADN) do chất lượng dấu vết kém…: Đã sử dụng hết mẫu vật.” Tại bản Kết luận giám định số 4119/KL-KTHS, ngày 29/07/2022, Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:
“Trên viên bê tông gửi giám định có bám dính dấu vết máu người và là máu của Nguyễn Thị Hiền có kiểu gen (ADN) lưu tại Viện khoa học hình sự Bộ Công an theo Kết luận giám định số: 2778/KL-KTHS ngày 31/05/2022 của Viện Khoa học hình sự Bộ công an”.
* Định giá tài sản:
Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 1210/KL-HĐ ngày 10/10/2022, Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự tỉnh Bắc Ninh, kết luận:
“ Giá biển quảng cáo: Khung bằng kim loại; mặt biển làm bằng nilon tổng hợp; kích thước (1,8x0,8x0,12)m, chân làm bằng kim loại cao 34cm, rộng 75cm là: 916.667 đồng.
Chi phí khắc phục sửa chữa Biển quảng cáo trên bao gồm: In lại mặt biển, sửa khung biển là: 416.667 đồng”.
Ngày 07/12/2022 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Ninh phối hợp Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh, người chứng kiến cho Ngô Văn Đ thực nghiệm hành vi tay phải điều khiển xe mô tô, tay trái cầm viên bê tông giơ lên ném về phía chị Phạm Thị H. Kết quả bị cáo đã thực hiện được và hướng dẫn người đóng thế thực hiện được toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai báo, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra.
Trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, các bị cáo đã tác động để gia đình xin lỗi chị Phạm Thị H và tự nguyện bồi thường cho chị H số tiền 400.000.000đ. Chị H đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bồi thường khoản nào khác và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Ngô Văn D không yêu cầu Đỗ Văn T, Nguyễn Tiến Tr phải bồi thường trách nhiệm dân sự.
Tại Cáo trạng số: 60/CT-VKS-P2 ngày 18/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo Ngô Văn Đ về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; bị cáo Ngô Văn D về tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Ngô Văn Đ thừa nhận ngày 01/5/2022, sau khi bị chị H chặn đường, bị cáo nhặt 01 viên bê tông cầm bằng tay trái, điều khiển xe mô tô bằng tay phải, khi đến gần cách chị H 02m, bị cáo ném viên bê tông trúng vào đầu gây thương tích cho chị H. Đối với việc D cầm 02 viên bê tông ném vào biển hiệu quán bia Linh Tiến, bị cáo không biết trước ý định của D, mục đích ban đầu chỉ là chở D đến quán bia Linh Tiến để nói chuyện. Bị cáo đã bồi thường cho bị hại. Đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Ngô Văn D trình bày: Do mâu thuẫn trong việc thanh toán tiền với anh Tr và anh T chủ quán bia Linh Tiến nên D đã gọi Đ chở D quay lại quán bia nói chuyện. Bị cáo có hành vi dùng 02 nửa viên bê tông ném hỏng biển hiệu quán bia Linh Tiến. Đối với việc anh Tr và anh T gây thương tích cho D, bị cáo không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự và hình sự. Bị cáo biết sai, vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội giữ nguyên Cáo trạng truy tố. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đã đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Ngô Văn Đ phạm tội “Giết người”; Ngô Văn D phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 57; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Ngô Văn Đ từ 12 (Mười hai) đến 13 (Mười ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/5/2022.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt: Ngô Văn D 24 (Hai mươi tư) đến 36 (Ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (Bốn mươi tám) đến 60 (Sáu mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 11/7/2023.
Về trách nhiệm dân sự: Do các bên không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Về xử lý vật chứng, áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS đề nghị xử lý: Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô đã qua sử dụng biển số: 99F1-X mang tên Ngô Văn Đ. Tịch thu tiêu hủy: 01 cục bê tông; 01 nửa viên gạch xi măng kích thước; 01 biển quảng cáo có hình dạng, kích thước đã nêu trong vụ án.
Luật sư của bị cáo Đ phát biểu quan điểm bào chữa: Nhất trí với tội danh và điều khoản áp dụng như đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Về hình phạt, Luật sư đề nghị HĐXX cân nhắc nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 1 Điều 54 BLHS vì bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 Điều 51, 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
Quan điểm tranh luận của Kiểm sát viên: Bị cáo mặc dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1, 2 Điều 51 BLHS, nhưng hành vi của bị cáo gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho bị hại (tổn thương cơ thể lên đến 81%, hiện nay vẫn chưa phục hồi). Hơn nữa, bị cáo là người được rèn luyện trong môi trường quân đội, là môi trường rất kỷ luật, nhưng khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, bị cáo lại có hành vi côn đồ, coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe, tính mạng người khác, thể hiện thái độ ích kỷ, do đó, cần phải áp dụng nghiêm hình phạt đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt từ 12-13 năm đối với Đ là phù hợp, không nặng.
Luật sư không đối đáp gì thêm, chỉ đề nghị HĐXX xem xét toàn diện nhân thân, hoàn cảnh phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có mức hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Bị cáo Đ đồng ý quan điểm của Luật sư bào chữa, không bổ sung gì thêm. Đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo D không tranh luận gì với bản luận tội của Kiểm sát viên; đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì tranh luận, đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đ và D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tam gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Ngô Văn Đ và Ngô Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng; biên bản khám nghiệm hiện trường; kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ 30’ ngày 30/4/2022 tại quán Linh Tiến ở khu phố Hương Mạc, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Ngô Văn D nảy sinh mâu thuẫn, cãi cọ, chửi nhau với anh với Đỗ Văn T, Nguyễn Tiến Tr (là chủ quán) về việc khuyến mại của quán. Vì vậy, Ngô Văn D gọi điện thoại rủ Ngô Văn Đ đến quán Linh Tiến để “nói chuyện”. Đ đồng ý và điều khiển xe mô tô BKS 99F1- X chở D ngồi sau từ khu vực Ủy ban nhân dân phường Hương Mạc đến quán Linh Tiến. Trên đường đi D xuống xe đi vệ sinh và nhặt 02 cục bê tông kích thước khoảng (10x8x6)cm mang theo nhưng không nói cho Đ biết. Khi đến quán Linh Tiến thì D bất ngờ cầm 02 cục bê tông ném vào biển hiệu của quán làm hỏng, rách biển hiệu quán Linh Tiến làm biển hiệu đổ xuống đường gây náo loạn khách hàng đang ăn tại quán. Ngay sau khi D ném đổ biển hiệu quán Linh Tiến, Đ bất ngờ nên điều khiển xe chở D bỏ chạy. Thấy vậy Đỗ Văn T điều khiển xe mô tô BKS 99D1-X chở Nguyễn Tiến Tr đuổi theo nhưng không kịp. Sau đó, Đ điều khiển xe mô tô chở D vòng quanh lại để về nhà thì T và Tr phát hiện nên tiếp tục điều khiển xe mô tô đuổi theo. Đuổi khoảng 800m thì T đuổi kịp và vượt lên chặn xe mô tô của Đ. D nhảy xuống khỏi xe bỏ chạy thì bị Tr khống chế. T và Tr dùng chân tay không giằng co, đấm đá gây tổn thương cơ thể cho D 07%. Đ quay xe bỏ chạy. Cùng lúc này chị H điều khiển xe mô tô đi đến chặn xe mô tô do Đ điều khiển, Đ tránh né và bỏ khoảng 30m thì dừng lại nhặt 01 cục bê tông hình lưỡi rìu dài 16cm, một đầu kích thước (7x6,5)cm, một đầu kích thước (11x3,2)cm, nặng 1,6kg cầm trên tay trái. Sau đó Đ điều khiển xe mô tô quay lại. Tay phải điều khiển xe, tay trái cầm cục bê tông. Khi đi đến cách chị H khoảng 02m, Đ dùng tay trái ném cục bê tông vào vùng đầu chị H gây vết thương rách da chảy máu làm chị H ngã nghiêng bên phải xuống mặt đường, nằm bất tỉnh gây tổn thương cơ thể 81%. Sau đó Đ điều khiển xe mô tô đi về nhà ngủ đến sáng ngày 01/5/2022 thì đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Từ Sơn đầu thú. Khoảng thời gian từ khi D ném cục bê tông vào biển hiệu quán Linh Tiến đến khi gây thương tích cho chị H và chấm dứt sự việc diễn ra khoảng 20 phút trong khu vực dân cư sinh sống đông đúc, thời điểm đêm khuya gây náo loạn, mất trật tự khu dân gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, có đủ căn cứ để xét xử bị cáo Ngô Văn Đ phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; Ngô Văn D phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự như cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, đã xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự tại địa phương, gây hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải xét xử nghiêm bằng pháp luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Đối với bị cáo Ngô Văn Đ, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; bị cáo xin lỗi bị hại và gia đình bị hại, tác động gia đình bồi thường cho bị hại 200 triệu đồng; gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo Đ hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Sau khi phạm tội, bị cáo đã ra đầu thú. Ngoài ra Đ có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự; bố bị cáo là ông Ngô Văn L được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương (trong các Huân, Huy chương của ông L ghi Nguyễn Văn L, bà Kh (vợ ông L) khai tại phiên tòa, ông L có họ Nguyễn Ngô, nên các giấy tờ đều ghi họ Nguyễn). Do đó, bị cáo Đ hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Đ phạm tội “Giết người” nhưng bị hại không chết, thuộc trường hợp phạm tội chưa D nên được áp dụng khoản 3 Điều 57 BLHS. Về áp dụng quy định xử hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, xét thấy mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng hậu quả gây ra cho bị hại là nặng nề, do đó cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi và mức độ thiệt hại mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Vì vậy, bị cáo không được hưởng hình phạt mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 54 BLHS.
[5] Đối với bị cáo Ngô Văn D, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải do đó được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo gây thiệt hại 416.667 đồng cho quán bia Linh Tiến nhưng chủ quán bia không yêu cầu bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hơn nữa, mặc dù bị cáo phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”, không phạm tội “Giết người” nhưng bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình cũng có một phần là nguồn cơn của vụ án giết người do bị cáo Đ thực hiện, do dó, bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho chị H 200 triệu đồng. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS đối với bị cáo. Việc bị cáo tích cực, chủ động bồi thường cho chị H thể hiện bị cáo đã tự ý thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình nên xét thấy chỉ cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo D và bị cáo Đ đã bồi thường cho chị H tổng số 400 triệu đồng, chị H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm; chủ quán bia Linh Tiến không yêu cầu bị cáo D bồi thường thiệt hại của biển quảng cáo nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô BKS 99F1-X kèm đăng ký xe mang tên Ngô Văn Đ, do bị cáo Đ sử dụng vào mục đích phạm tội nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước. Đối với 01 biển quảng cáo, anh T và anh Tr không xin lại; 01 cục bê tông; 01 nửa viên gạch xi măng các bị cáo đã dùng phạm tội không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Liên quan đến vụ án: Đối với hành vi của Đỗ Văn T và Ngô Tiến Tr đuổi theo Được và D sau đó dùng chân tay không đánh gây tổn thương cơ thể cho D 07% là do D khởi xướng hành vi ném hỏng biển hiệu quán Linh Tiến trước. Quá trình khống chế D thì T và Tr đã gọi điện thoại báo lực lượng công an đến giải quyết. Hành vi của T và Tr không có tính chất côn đồ. Bản thân D cũng không có yêu cầu đề nghị gì. Vì vậy, Công an thành phố Từ Sơn đã xử phạt vi phạm hành chính đối với T và Tr là phù hợp. Đối với hành vi Ngô Văn Đ điều khiển xe chở Ngô Văn D sau đó D có hành vi ném biển hiệu quán bia Linh Tiến nhưng xét thấy D không bàn bạc gì trước với Đ về việc ném biển hiệu quán Linh Tiến. Vì vậy Cơ quan điều tra công an tỉnh Bắc Ninh không đề nghị xử lý Đ về hành vi gây rối trật tự công cộng là phù hợp.
[9] Về án phí: Các bị cáo Đ và D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Ngô Văn Đ phạm tội “Giết người”; bị cáo Ngô Văn D phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 57; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Ngô Văn Đ 11 (Mười một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/5/2022. Duy trì Quyết định tạm giam số: 190/2023/HSST-QĐTG ngày 19/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đối với bị cáo Ngô Văn Đ để đảm bảo việc thi hành án.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt: Ngô Văn D 24 (Hai mươi tư) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (Bốn mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 11/7/2023. Giao bị cáo Ngô Văn D cho Ủy ban nhân dân phường Phù Khê, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô đã qua sử dụng biển số: 99F1-X; loại xe: 02 bánh từ 50-175cm3; nhãn hiệu: Honda; số loại Wave; màu sơn: Xanh đen bạc; Dung tích xi lanh: 97; Số máy: HC12F7323381; Số khung: RLHHC1254FY323292; số chỗ ngồi: 2; năm sản xuất: 2016 và 01 đăng ký xe moto số 027144 mang tên Ngô Văn Đ.
Tịch thu tiêu hủy: 01 cục bê tông hình lưỡi rìu kích thước dài 16cm, một đầu kích thước (7*6,5)cm, một đầu kích thước (11*3,2)cm, nặng 1,6kg; 01 nửa viên gạch xi măng kích thước (10,5*9,5*6,5)cm; 01 biển quảng cáo kích thước (1,8*0,8*0,12)m.
(Toàn bộ vật chứng có đặc điểm theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 108/2023 ngày 18/5/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo Ngô Văn Đ và Ngô Văn D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.
Bản án về tội giết người số 78/2023/HS-ST
Số hiệu: | 78/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về