Bản án về tội giết người số 77/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 77/2021/HSST NGÀY 08/12/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI 

Trong ngày 08/12/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 90/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 202/2021/QĐXXST-HS ngày 24/11/2021 đối với cácbị cáo sau:

1. Đoàn Ngọc (tên gọi khác: N). Sinh ngày01/3/1998, tại Gia Lai.Nơi đăng ký HKTT:thôn C, xã C, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;con ông Đoàn Thanh N và bà Nguyễn Thị K; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: không,tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/10/2020 cho đến nay; Hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai, có mặt.

2. Nguyễn Thế H. Sinh ngày12/08/2001, tại Gia Lai.Nơi đăng ký HKTT:thôn A, xã C, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; Nơi đã cư trú: xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;con ông Nguyễn Văn M (đã chết) và bà Lê Thị Tuyết H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: không,tiền sự: Không; Nhân thân: ngày 29/8/2019, bị Công an huyện Đ ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích, đã chấp hành xong Quyết định xử phạt; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/10/2020 cho đến nay; Hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai, có mặt.

3. Trần Văn T (tên gọi khác: C). Sinh ngày24/02/1994, tại Gia Lai.Nơi đăng ký HKTT:thôn A, xã C, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;con ông Trần Văn T và bà Ngô Thị Thanh L; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: không,tiền sự: không; Nhân thân: năm 2013, bị Công an thị xã A ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích, đã chấp hành xong Quyết định xử phạt. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/10/2020 cho đến ngày 07/11/2020 thì được trả tự do; Ngày 25/02/2021 bị bắt tạm giam cho đến nay; Hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai, có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo L, H: Ông Nguyễn Mạnh H là Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai. Có mặt

* Người bào chữa cho bị cáo T: Ông Đào Văn T là Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai. Có mặt

* Người bị hại:

- Anh Lê Đình H; Sinh ngày 20/02/2003 Trú tại: thôn A, xã C, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Có mặt

- Anh Nguyễn Chí T, sinh năm 2003 Trú tại: thôn A, xã C, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Có mặt

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- ÔngLê Đình H, sinh năm 1964 Trú tại: thôn A, xã C, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Có mặt

- Ông Đoàn Thanh N, sinh năm 1973 Trú tại: thôn C, xã C, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Văng măt

- Bà Lê Thị Tuyết H, sinh năm 1974 Trú tại: Thôn 1, xã Đ, huyện N, tỉnh Kon Tum. Có mặt

- Ông Trần Văn T, sinh năm 1971 Trú tại: thôn A, xã C, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt

* Người làm chứng:

- Chị Lê Thị Thúy T, sinh năm 2003

- Chị Nguyễn Thị Bích H, sinh năm 2003

Đều trú tại: thôn A, xã C, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 30 phút ngày 22/10/2020, Đoàn Ngọc L, Nguyễn Thế H và Trần Văn T ngồi nhậu tại nhà của H thuộc thôn A, xã C, huyện Đ, tỉnh Gia Lai ven Quốc lộ 19. Đến khoảng 23 giờ 20 phút cùng ngày, L ra phía trước nhà của H đi vệ sinh thấy nhóm thanh niên, gồm: Lê Đình H (sinh năm 2003), Nguyễn Khắc Thành D (sinh năm 2003), Trương Mạnh C (sinh năm 2003), Nguyễn Chí T (sinh năm 2003), Tô Thị Ánh T (sinh năm 2003), Lê Thị Thúy T (sinh năm 2003), Trần Thị Thanh T (sinh năm 2004), Nguyễn Thị Bích H (sinh năm 2003) cùng trú tại thị xã A, tỉnh Gia Lai, điều khiển 04 xe gắn máy lưu thông trên Quốc lộ 19 theo hướng từ thị trấn Đ đi thị xã A. Lúc này, Đoàn Ngọc L gọi to “Ê, đánh lộn không” thì Nguyễn Khắc Thành D đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 81G1-251.13 chở Tô Thị Ánh T quay đầu lại phía Lân chửi tục rồi tiếp tục lưu thông về hướng thị xã A. Nghe tiếng D chửi, Đoàn Ngọc L bực tức đi vào nhà nói với H và T “có một nhóm thanh niên đi ngoài đường ăn nói mất dạy, chúng mình đuổi theo đánh cho bọn nó hoảng”, H và T đồng ý. L nói H ra lấy xe mô tô biển kiểm soát 81F1-123.21 của L đang dựng ngoài sân để chở L và T đi đánh nhóm thanh niên trên. H ra sân lấy xe thì T cũng đi theo, còn L tìm lấy một cái rựa ở dưới gầm giường nhà H cầm theo, mục đích dùng để đánh nhóm thanh niên. Khi H khởi động xe mô tô thì T ngồi giữa còn L cầm rựa bằng tay phải ngồi phía sau T. Nguyễn Thế H điều khiển xe mô tô chở ba đuổi theo đến Km 82+80 Quốc lộ 19 thuộc thôn Tâ, xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai phát hiện thấy nhóm của Lê Đình H đang điều khiển xe gắn máy di chuyển cùng chiều phía trước. Khi cách nhóm của H khoảng 10 mét, L chỉ về nhóm của H nói “là nhóm kia”, H tăng ga, điều khiển xe mô tô áp sát xe gắn máy do anh Nguyễn Chí T điều khiển chở chị Nguyễn Thị Bích H ngồi phía sau. L dùng phần sống rựa chém một nhát vào đầu Nguyễn Chí T, do T đội mũ bảo hiểm nên chỉ làm vỡ mũ bảo hiểm nhưng không bị thương tích và vẫn tiếp tục điều khiển xe gắn máy chở H. ngay sau đó, H tiếp tục điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 81F1-123.21 chạy về phía trước áp sát xe gắn máy biển kiểm soát 81AE-015.00 do anh Lê Đình H điều khiển chở chị Lê Thị Thúy T ngồi phía sau. H hỏi “Hồi nãy đứa nào chửi” nhưng anh H không trả lời thì L cầm rựa bằng tay phải giơ cao nhằm vào đầu của H chém theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải làm mũi và lưỡi dao rựa xuyên qua mũ bảo hiểm trúng vào vùng đầu (đỉnh trái) của H gây thương tích và vỡ mũ bảo hiểm, anh H và chị T ngã xuống lề đường bên phải theo hướng đang lưu thông. Sau khi L chém anh H, T nói với H “chạy lên cây xăng Nhơn Tín về An Sơn” mục đích để bỏ trốn, H đã chở L và T bỏ chạy về phía trước rồi rẽ vào đường bê tông liên thôn thuộc xã T. Về đến nhà H, L cất rựa vào gầm giường, còn T nói H quay lại xem Lê Đình H có bị sao không thì H điều khiển xe quay lại vị trí xảy ra sự việc nhưng không thấy ai nên quay về báo cho L và T biết. Sau đó, L và T đi về nhà ngủ.

Đi với Lê Đình H, sau khi bị chém ngã xuống đường bất tỉnh, những người đi cùng đưa H đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế thị xã A, sau đó được gia đình chuyển đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định điều trị từ ngày 23/10/2020 đến ngày 29/10/2020 thì xuất viện.

Ngày 26 và 29/10/2020, anh Lê Văn H là cha ruột của Lê Đình H có đơn trình báo, yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ; ngày 30/10/2020 khi được lấy lời khai anh Lê Đình H yêu cầu được giám định thương tích tổn hại % sức khỏe.

Sau khi thụ lý, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã trưng cầu giám định tỷ lệ % tổn hại sức khỏe của bị hại Lê Đình H. Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số 253/2020/PY-TgT ngày 09/11/2020, Trung tâm giám định pháp y tỉnh Gia Lai kết luận:

Dấu hiệu chính qua giám định: “Chấn thương gây sưng nề vùng đỉnh trái, đau đầu lún sọ đỉnh trái, tụ máu ngoài màng cứng đỉnh trái đã phẫu thuật lấy máu tụ, gặm bỏ xương lún. Hiện bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, không ghi nhận dấu hiệu thần kinh khu trú; vùng đỉnh trái có vết mổ hình vòng cung kích thước (14x0,3)cm, có diện khuyết sọ đáy phập phồng; Điện não đồ biến đổi nhẹ. Chấn thương gây xây xát da vùng mặt (thể hiện tại Bệnh án điều trị) đã điều trị: gò má phải để sẹo rõ kích thước (1,5x0,5)cm; Mép trái để sẹo dính kích thước (0,5x0,5)cm. Chấn thương gây xây xát da bàn tay phải đã điều trị. Hiện để lại ba vùng thâm da không thành sẹo (Bệnh án) vai phải kích thước (3x1)cm, khủy tay phải kích thước (1x0,5)cm, mu bàn tay phải kích thước (6x2)cm. Chấn thương gây xây xát da chân phải (Bệnh án) đã điều trị. Hiện để các sẹo từ mắt cá ngoài đến mu bàn chân gồm năm sẹo kích thước (1x0,7)cm, kích thước (2x1,5)cm, kích thước (2x1)cm và kích thước (1x1)cm; vận động cổ - bàn chân phải trong giới hạn bình thường”.

Căn cứ Bảng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 49% (Bốn mươi chín phần trăm).

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành việc khám nghiệm và thực nghiệm điều tra tại hiện trường vụ án; lập biên bản thu vật chứng vụ án. Qua giám định, tại Kết luận giám định số 01/KLGĐ ngày 25/12/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận: “Trên con dao rựa (dao quắm) ghi thu của Nguyễn Thế H gửi giám định: Không có máu”.

Tại cáo trạng số 63/CT-VKS-P2 ngày 08/6/2021,VKSND tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Đoàn Ngọc L, Nguyễn Thế H, Trần Văn T về tội: “Giết người”theo quy định tại điểm a,n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

2. Diễn biến phiên tòa:

- Các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, các bị cáo thấy hối hận xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát tỉnh Gia Lai giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:Tuyên bố các bị cáo Đoàn Ngọc L, Nguyễn Thế H, Trần Văn T phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; Điêu 15, 57; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015, Xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc L mức án từ 10 đến 11 năm tù Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế H mức án từ 08 đến 09 năm tù Xử phạt bị cáo Trần Văn T mức án từ 07 đến 08 năm tù -Về dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại 82.000.000 đồng, phía bị hại đề nghị các bị cáo bồi thường tiêp số tiền 68.000.000 đồng buộc các bị cáo phải bồi thường cho gia đình anh H.

-Vật chứng của vụ án trả cho bị cáo L chiếc xe máy, tiêu hủy cao dao rưa và mũ bảo hiểm bị vỡ.

-Về án phí, buộc các bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Người bào chữa cho bị cáo các bị cáo đồng ý với tội danh, điểm, khoản, Điều luật như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, cho rằng hậu quả chết người chưa xảy ra, các bị cáo đa bồi thường, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo mức án thấp hơn do đại diện Viên kiêm sát đề nghị.

- Người bị hại anh Lê Đình H và anh Nguyễn Chí T nhất trí nội dung truy tố, luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Anh H đề nghị các bị cáo bồi thường số tiền còn lại là 68.000.000 đồng, anh T không yêu cầu bồi thường.Về hình phạt ngươi bi hai có đơn bãi nại và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Hoạt động của các cơ quan và người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng hiện hành; các tài liệu, chứng cứ thu thập được có tại hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nội dung cáo trạng, phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: giữa các bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn, tối ngày 22/10/2020 khi nhóm của bị hại đi ngang qua phía trước nhà bị cáo H thì L khiêu khích, rủ nhóm của bị hại đánh nhau, thì bị anh D văng tục, chửi lại L, bực tức nên L rủ H và T cùng đuổi theo đánh nhóm của bị hại. Cả nhóm đều đồng ý, H chở T ngồi giữa, L ngồi sau cùng trên một chiếc xe mô tô, L cầm theo một cái rựa khi phát hiện được nhóm của bị hại thì L dùng sống rựa chém vào đầu anh Nguyễn Chí T đang chở theo chị Nguyễn Thị Bích H làm vỡ mũ bảo hiểm nhưng không bị thương tích gì. Nhóm của L tiếp tục đuổi về phía trước tiếp tục cầm rựa chém anh Lê Đình H đang chở chị Lê Thị Thúy T ngồi sau, mũi và lưỡi dao rựa xuyên qua mũ bảo hiểm trúng vào đỉnh trái đầu anh H. Hậu quả anh H bị thương tích nặng chấn thương sọ não, lún sọ với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 49%. Mặc dù anh Nguyễn Chí T không bị thương nhưng các bị cáo dùng hung khí nguy hiểm chém vào vùng đầu các bị hại trong điều kiện các bị hại đang tham gia giao thông đường bộ là nguy hiểm, đe dọa tính mạng của nhiều người.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai truy tố các bị cáo về tội “Giết người” với tình tiết định khung “Giết 02 người trở lên” và “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 là có căn cứ, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo: Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, coi thường pháp luật và coi thường tính mạng người khác. Hành vi của các bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần xử lý nghiêm theo quy định của Bộ luật hình sự với tất cả các bị cáo để giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng;

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: sau khi phạm tội gia đình các bị cáo đã bồi thường một phần cho phía bị hại, các bị cáo thành khẩn khai báo và thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, phía bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nên được áp dụng Điều 15, khoản 3 Điều 57, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân của các bị cáo: các bị cáo Lân có nhân thân tốt; bị cáo Hùng, Thức đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích.

[4] Về phân hóa vai trò và nhận định hình phạt đối với từng bị cáo:

Các bị cáo thực hiện hành vi phạm bộc phát, không có dự mưu trước không phân công nhiệm vụ, câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn.

Bị cáo Đoàn Ngọc L giữ vai trò là người cầm đầu, rủ rê các bị cáo khác tham gia hành vi phạm tội, bị cáo còn trực tiếp dùng hung khí chém vào đầu anh H và anh T. Các bị cáo H và T người phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức, H có nhiệm vụ chở các bị cáo đi tìm nhóm bị hại, T đi theo giúp sức về mặt tinh thần cho các bị cáo khác, khi thực hiện hành vi phạm tội xong còn hướng dẫn các bị cáo khác bỏ trốn.

Do đó, bị cáo L phải chịu mức hình phạt cao hơn các bị cáo khác, tính chất, vai trò của bị cáo H và T là như nhau các bị cáo từng bị xử phạt hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích nên các bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xưng vơi hành vi phạm tội của mình.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Ti phiên tòa các bị cáo và phía bị hại đã thỏa thuận được với nhau về việc bồi thường chi phí cứu chữa, điều trị, ngày công lao động của bị hại, người chăm sóc và tổn thất tinh thần là 150.000.000 đồng. Bị cáo Đoàn Ngọc L đã bồi thường 36.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn Thế H bồi thường 20.000.000 đồng, bị cáo Trần Văn T bồi thường số tiền 26.000.000 đồng. Do đó, các bị cáo còn phải bồi thường cho anh H số tiền 68.000.000 đồng, Trong đó, bị cáo L phải bồi thường số tiền 24.000.000 đồng, bị cáo H phải bồi thường số tiền 25.000.000 đồng và T phải bồi thường số tiền 19.000.000 đồng.

Anh Nguyễn Chí T và chị Lê Thị Thúy T không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường về sức khỏe, không ai yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng:

- Đối với 01 (Một) con dao rựa có chiều dài 110cm; cán rựa bằng gỗ dài 81,5cm, đường kính 03cm, hình trụ tròn, tại điểm nối giữa cán rựa và lưỡi rựa có khâu bằng kim loại hình tròn dài 12,5cm; lưỡi rựa bằng kim loại màu đen dài 28,5cm, chỗ rộng nhất của bản lưỡi là 5,2cm, lưỡi rựa sắc; mũi rựa nhọn cong về phía lưỡi; 01 (Một) mũ bảo hiểm bằng nhựa, màu đen, đã bị vỡ thành nhiều mảnh, trên đỉnh mũ có vết thủng diện (6x8)cm, dây quai mũ bằng vải, màu đen, bên trong mũ có lớp xốp màu trắng là hung khí của vụ án và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (Một) xe máy biển kiểm soát 81F1-123.21, nhãn hiện Yamaha, loại Exciter 150; số khung: RLCUG1010KY136660; số máy: G3D4E903089 thuộc sở hữu của Đoàn Ngọc L bị cáo dùng vào hành vi phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Đoàn Ngọc L, Nguyễn Thế H, Trần Văn T phạm tội:“Giết người”;

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; Điều 15, khoản 3 Điều 57, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;Điều 38Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc L 11 (Mươi môt ) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/10/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế H 09 (Chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/10/2020.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/02/2021 nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 29/10/2020 đến ngày 07/11/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự:Áp dụng Điều 48 BLHS; Điều 591 BLDS năm 2015, xử:

Công nhận sự thỏa thuận của các bị cáo và bị hại anh Lê Đinh H . Buộc các bị cáo tiêp tuc bồi thường chi phí cứu chữa, điều trị, ngày công lao động và tổn thất tinh thần cho bị hại. Bị cáo Đoan Ngoc L bồi thường 24.000.000 đồng (Hai mươi bốn triệu đồng), bị cáo Nguyên Thê H bồi thường 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng), bị cáo Trân Văn T bồi thường 19.000.000 đồng (Mươi chin triệu đồng).Anh Lê Đình H được nhận số tiền bồi thường kể trên.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án theo Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền.

4.Về vật chứng:

Căn cứ Điều 106 BLTTHS năm 2015, - Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) con dao rựa có chiều dài 110cm; cán rựa bằng gỗ dài 81,5cm, đường kính 03cm, hình trụ tròn, tại điểm nối giữa cán rựa và lưỡi rựa có khâu bằng kim loại hình tròn dài 12,5cm; lưỡi rựa bằng kim loại màu đen dài 28,5cm, chỗ rộng nhất của bản lưỡi là 5,2cm, lưỡi rựa sắc; mũi rựa nhọn cong về phía lưỡi; 01 (Một) mũ bảo hiểm bằng nhựa, màu đen, đã bị vỡ thành nhiều mảnh, trên đỉnh mũ có vết thủng diện (6x8)cm, dây quai mũ bằng vải, màu đen, bên trong mũ có lớp xốp màu trắng.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (Một) xe máy biển kiểm soát 81F1- 123.21, nhãn hiện Yamaha, loại Exciter 150; số khung: RLCUG1010KY136660; số máy: G3D4E903089.

Theo biên bản giao nhận vật chứng số 38/2021 lập ngày 15/6/2021, giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai và Cục thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai

5. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12 /2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Đoàn Ngọc L, Nguyễn Thế H, Trần Văn T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Đoan Ngoc L phải nộp 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng), bị cáo Nguyên Thê H phải nộp 1.250.000 đồng (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) và bị cáo Trân Văn T phải nộp 950.000 đồng (Chín trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo:

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm. Trường hợp vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

7. Về thi hành án dân sự:

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

554
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 77/2021/HSST

Số hiệu:77/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về