Bản án về tội giết người số 66/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 66/2021/HS-ST NGÀY 20/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 20 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2021/TLST-HS, ngày 30 tháng 06 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2021/QĐXXST-HS, ngày 20 tháng 07 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lục Văn A; tên gọi khác: Giang; giới tính: Nam; sinh năm 1999 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Xã E, huyện S, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: không; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; tiền án, tiền sự: không; con ông Lục Văn Y, sinh năm 1969 (đã chết) và bà Sầm Thị H, sinh năm 1980.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk từ ngày 12/02/2021 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định: Bà Nguyễn Thị X – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: Số 39, Đường K, thành phố T, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

* Người bị hại: Anh Lục Văn L (đã chết) Người đại diện hợp pháp cho người bị hại (bố mẹ ruột): Ông Lục Văn T1 - sinh năm 1970 và bà Triệu Thị M - sinh năm 1973; địa chỉ: Xã E, huyện S, tỉnh Đắk Lắk; ông T1 có mặt, bà M vắng mặt.

* Người làm chứng: Ông Nông Quang H1; địa chỉ: Xã E, huyện S, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài vào dịp tết nên sau khi đi uống rượu về, Lục Văn A (sinh năm 1999, trú tại thôn 0, xã E, huyện S, tỉnh Đắk Lắk) nhớ lại việc trước đây A có cho gia đình ông Lục Văn T1 (sinh năm 1970, trú cùng thôn) là bác của mình thuê đất làm nương rẫy với số tiền 1.500.000 đồng, nhưng A chỉ lấy 500.000 đồng, còn lại 1.000.000 đồng A không lấy mà cho gia đình ông T1. Vì vậy, đến khoảng 23 giờ, ngày 11/02/2021, A đến nhà ông T1 để đòi lại tiền thì gặp ông T1, bà Triệu Thị M (sinh năm 1973 là vợ ông T1) và anh Lục Văn L (sinh năm 1997 là con trai ông T1) đang ở nhà. Tại đây, A nói với ông T1 “cho cháu xin lại tiền thuê đất 500.000 đồng”, ông T1 trả lời “không được, năm nay bác cũng không có tiền”, thì A tiếp tục đòi nhưng ông T1 không đưa. A liền dùng tay nắm cổ áo ông T1, nhưng ông T1 chạy ra ngoài sân (ngoài sân có điện sáng). Thấy vậy, anh L đi theo và nói với ông T1 “kệ nó đi”, nghe vậy A bực tức chửi anh L rồi lao đến vật anh L ngã xuống sân. Sau khi cả hai ôm vật nhau qua lại dưới sân, thì A đứng dậy đi lấy một cây cuốc ở gần đó đứng đối diện cách anh L khoảng 1,5 m rồi dùng hai tay cầm cán cuốc giơ lên cao bổ một nhát theo hướng từ trên xuống dưới trúng vào đầu anh L. Thấy đầu anh L bị chảy nhiều máu, A cùng với ông Nông Quang H1 đưa anh L đi cấp cứu rồi đến Công an huyện S đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Do vết thương quá nặng nên anh L đã tử vong lúc 11 giờ 30 phút ngày 13/02/2021.

* Kết quả khám nghiệm hiện trường:

Ngày 12/02/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S, tỉnh Đắk Lắk tiến hành khám nghiệm hiện trường nơi xảy ra vụ án là tại nhà của ông Lục Văn T1 và bà Triệu Thị M ở thôn 0, xã E, huyện S, tỉnh Đắk Lắk. Lấy nhà bà M làm trung tâm hiện trường thấy: cách cửa chính ra vào của căn nhà 4,7m về hướng Đông Bắc và cách góc nhà hướng Đông Bắc 02 m về hướng Đông, tại vị trí sân đất trước nhà thấy một đám máu dạng loang, nhỏ giọt, màu đỏ thẩm trong diện (0,7m x 0,3m). Cách đám máu này 2,8m về hướng Tây Bắc, cách góc tường nhà hướng Đông Bắc 2,1m thấy một đám máu dạng loang, màu đỏ thẩm trong diện (0,2m x 0,2m) ở vị trí sân đất bên cạnh nhà. Cách đám máu này 6,4m về hướng Đông Bắc, cách bếp phía sau 21,5m về hướng Đông, tại vị trí sân đất phát hiện thấy 01 chiếc áo thun màu trắng loại ngắn tay; 02 chiếc dép tông màu vàng nâu, trên dép có dấu vết máu dạng nhỏ giọt bám dính màu đỏ thẫm và một đám máu dạng nhỏ giọt màu đỏ thẩm trong diện (0,6 x 0,5 m). Cách vị trí này 01 m về hướng Đông Bắc, tại vị trí sân đất thấy một đám máu dạng loang, vũng nhỏ giọt màu đỏ thẩm trong diện (0,7m x 0,5m). Sát vị trí này về hướng Đông thấy một chiếc cuốc lưỡi bằng kim loại màu nâu đen rộng 23 cm, cao 12,5 cm, mặt trong có số “555”, mặt ngoài thấy có vết máu dạng tia bám dính trong diện (10cm x 7cm) màu nâu đỏ; cán cuốc dài 115 cm, đường kính 03 cm.

Mở rộng hiện trường ra khu vực xung quanh không phát hiện dấu vết hay đồ vật gì liên quan.

* Kết quả khám nghiệm tử thi:

Tử thi được gia đình xác nhận là anh Lục Văn L, sinh năm 1997, trú tại thôn 0, xã E, huyện S, tỉnh Đắk Lắk.

- Khám ngoài: Tử thi mặc áo sơ mi dài tay màu trắng, quần vải dài màu xanh đen, bên trong mặc quần đùi vải màu xanh (quần áo đã được thay mới).

Chiều dài tử thi: 171 cm; thể tạng: trung bình. Tình trạng tử thi: Lạnh, cứng xác.

Đầu, mặt, cổ: Thái dương đỉnh trái có vết thương nằm dọc, dài 08 cm, hở rộng 3,5 cm, sâu tới xương vòm sọ, bờ mép vết thương sắc gọn, hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải.

Ngc, lưng, bụng: Trên rốn, cách rốn 03 cm có vết xước rách da nằm chéo dài 04 cm, chỗ rộng nhất 0,5 cm, hướng từ dưới lên trên, từ trái sang phải.

Tứ chi: Mõm vai trái có vết bầm tím kích thước (5,5 cm x 4,5 cm).

- Mổ tử thi:

Rạch da vùng đầu bộc lộ thấy tụ máu dưới da cơ vùng thái dương trái, kích thước (10 cm x 05 cm). Vỡ xương thái dương trái tạo mảnh rời không rõ hình, kích thước (05 cm x 03 cm), đường xương vỡ nằm dọc theo vết thương ngoài da dài 3,5 cm, bờ mép gọn. Đường phẩu thuật xương sọ thái dương trái dài 19 cm. Tổ chức não vùng thái dương trái dưới mảnh xương vỡ dập nát, tụ máu.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 220/PYTT-PC09 ngày 12/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận:

- Nguyên nhân tử vong của Lục Văn A là: Vết thương sọ não gây vỡ lún xương sọ, dập não, tụ máu não và phù nặng dẫn đến choáng hôn mê não không hồi phục.

- Thương tích vùng thái dương - đỉnh trái do vật cứng có cạnh tác động theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải.

- Thương tích vùng trên rốn do vật cứng có cạnh tác động theo hướng từ dưới lên trên, từ trước ra sau, từ trái sang phải.

- Thương tích mõm vai trái do tác động của vật cứng, tày tác động từ trái sang phải.

* Tại kết luận giám định số 330/GĐSH-PC09, ngày 23/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất màu nâu trên lưỡi cuốc gửi đi giám định là máu người, trùng với nhóm máu của tử thi Lục Văn L.

* Về việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu:

- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S, tỉnh Đắk Lắk đã thu giữ trong quá trình khám nghiệm hiện trường: 01 chiếc cuốc có lưỡi bằng kim loại màu nâu đen rộng 23 cm, cao 12,5 cm, mặt trong lưỡi cuốc có số “555” và cán cuốc dài 115 cm, đường kính 03 cm; 02 chiếc dép tông màu vàng nâu; 01 chiếc áo thun màu trắng loại ngắn tay.

- Quá trình ra đầu thú, Lục Văn A đã giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S, tỉnh Đắk Lắk 01 chiếc áo sơ mi màu trắng.

Tại bản cáo trạng số 59/CT-VKST-P2, ngày 28 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Lục Văn A về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đưa ra các chứng cứ buộc tội, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng số: 59/CT- VKST-P2, ngày 28 tháng 6 năm 2021 và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lục Văn A phạm tội “Giết người”;

Áp dụng các điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Lục Văn A từ 18 đến 20 năm tù.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc cuốc có lưỡi bằng kim loại màu nâu đen rộng 23 cm, cao 12,5 cm, mặt trong lưỡi cuốc có số “555” và cán cuốc dài 115 cm, đường kính 03 cm; 02 chiếc dép tông màu vàng nâu; 01 chiếc áo thun màu trắng loại ngắn tay; 01 chiếc áo sơ mi màu trắng.

(Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/6/2021).

- Về trách nhiệm dân sự: Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và người đại diện hợp pháp cho người bị hại, buộc bị cáo bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền là 150.000.000 đồng.

* Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo là bà Nguyễn Thị X trình bày luận cứ bào chữa:

Về tội danh thì Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Lục Văn A về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội nên người bào chữa không có ý kiến gì mà chỉ đi sâu vào phân tích các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã đưa bị hại đến bệnh viện sau đó đi đầu thú; bên cạnh đó, bị cáo là người dân tộc thiểu số; hoàn cảnh gia đình bị cáo rất là neo đơn, bị cáo hiện đang sống một mình, bố mất sớm, mẹ đi làm ăn xa; tại phiên tòa hôm nay, người đại diện hợp pháp cho bị hại cũng đã xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị HĐXX áp dụng điểm điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị và miễn toàn bộ án phí cho bị cáo vì bị cáo là dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Ngoài ra, đề nghị HĐXX chấp nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và đại diện hợp pháp cho người bị hại với số tiền là 150 triệu đồng.

Bị cáo không bào chữa tranh luận gì thêm chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác nên vào khoảng khoảng 23 giờ, ngày 11/02/2021 tại nhà của ông Lục Văn T1 tại thôn 0, xã E, huyện S, tỉnh Đắk Lắk, Lục Văn A đã dùng cuốc bổ một nhát vào đầu con trai của ông T1 là anh Lục Văn L. Hậu quả, anh L bị tử vong do vết thương quá nặng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lục Văn A theo bản cáo trạng số: 59/CT-VKST-P2, ngày 28 tháng 6 năm 2021. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để khẳng định rằng hành vi của bị cáo Lục Văn A đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Giết người”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 123 của Bộ luật hình sự.

Ti Điều 123 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

...................................

n) Có tính chất côn đồ;” Xét về ý thức bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo nhận thức được việc dùng cuốc là hung khí nguy hiểm, đánh vào vùng đầu, là vùng trọng yếu của người khác, hậu quả gây ra có thể ảnh hưởng đến tính mạng. Mặc dù nhận thức được điều đó, song do bản tính hung hăng, ý thức coi thường pháp luật, coi thường tính mạng của người khác, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ với người bị hại mà bị cáo đã dùng cuốc bổ một nhát vào đầu anh Lục Văn L, làm anh L bị tử vong.

Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, giữa bị cáo và người bị hại là anh em họ, chỉ vì không kiềm chế mà bị cáo đã gây ra cái chết cho anh họ của mình, gây đau thương, mất mát lớn cho gia đình. Điều này trái với luân thường đạo lý, trái với đạo đức xã hội, gây dư luận bất bình đối với quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Do vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tự nguyện ra đầu thú; bị cáo là người dân tộc thiểu số. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhằm thể hiện tính khoan hồng nhân đạo của pháp luật.

[3] Các biện pháp tư pháp:

[3.1] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí điều trị, chi phí mai táng, chi phí hợp lý khác và tiền tổn thất tinh thần là 220.585.000 đồng.

Theo yêu cầu của ông Lục Văn T1 (BL 125, 134) thì bị cáo phải bồi thường tổng cộng là 220.585.000 đồng.

- Tiền cấp cứu chữa trị: 6.985.000 đ - Tiền thuê xe ô tô (đưa đi cấp cứu tại BV vùng Tây Nguyên và đưa về):

3.000.000đ - Tiền viện phí: 3.985.000đ - Mai táng: Mua quan tài 32.000.000đ Tiền chôn cất, thuê rạp 20.000.000đ Mua hoa, nến 12.600.000đ - Tổn thất tinh thần (100 tháng lương cơ bản): 149.000.000 đ Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Áp dụng Điều 590, 591 Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ chấp nhận những yêu cầu bồi thường có hóa đơn chứng từ và những yêu cầu không có hóa đơn chứng từ nhưng phù hợp với quy định của pháp luật. Cụ thể chỉ chấp nhận các yêu cầu sau:

- Tiền cấp cứu chữa trị: 6.985.000 đ;

- Tiền thuê xe ô tô (đưa đi cấp cứu tại BV vùng Tây Nguyên và đưa về):

3.000.000đ - Mai táng: Mua quan tài 10.000.000đ;

Tiền chôn cất, thuê rạp 10.000.000đ Mua hoa, nến 5.000.000đ - Tổn thất tinh thần (80 tháng lương cơ bản): 119.200.000 đ Tổng cộng, bị cáo phải bồi thường cho gia đình bị hại số tiền là: 151.185.000đ.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện hợp pháp cho bị hại là ông Lục Văn T1 yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền là 150.000.000 đồng, bị cáo đồng ý với mức bồi thường trên. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 585 của Bộ luật dân sự năm 2015, chấp nhận thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa bị cáo và ông Lục Văn T1. Buộc bị cáo phải bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền là 150.000.000 đồng.

[3.2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tch thu tiêu hủy: 01 chiếc cuốc có lưỡi bằng kim loại màu nâu đen rộng 23 cm, cao 12,5 cm, mặt trong lưỡi cuốc có số “555” và cán cuốc dài 115 cm, đường kính 03 cm; 02 chiếc dép tông màu vàng nâu; 01 chiếc áo thun màu trắng loại ngắn tay; 01 chiếc áo sơ mi màu trắng.

(Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/6/2021).

[4] Về án phí:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và (5% x 150.000.000đ) = 7.500.000 đồng án phí dân sự sở thẩm. Tuy nhiên, bị cáo là dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Lục Văn A phạm tội “Giết người”.

Áp dụng các điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lục Văn A 18 (Mười tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/02/2021.

[2] Các biện pháp tư pháp:

[2.1] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 586, Điều 591 Bộ luật dân sự.

Bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại tổng số tiền là 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

[2.2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tch thu tiêu hủy: 01 chiếc cuốc có lưỡi bằng kim loại màu nâu đen rộng 23 cm, cao 12,5 cm, mặt trong lưỡi cuốc có số “555” và cán cuốc dài 115 cm, đường kính 03 cm; 02 chiếc dép tông màu vàng nâu; 01 chiếc áo thun màu trắng loại ngắn tay; 01 chiếc áo sơ mi màu trắng.

(Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/6/2021).

[3] Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

427
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 66/2021/HS-ST

Số hiệu:66/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về