Bản án về tội giết người số 499/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NNG
BẢN ÁN 499/2022/HS-PT
NGÀY 28/11/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 28 tháng 11 năm 2022, tại điểm cầu Trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và tại điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 458/2022/TLPT-HS ngày 17 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Tô Trọng T về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2022/HS-ST ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

Bị cáo bị kháng cáo:

Tô Trọng T, sinh năm 1998, tại tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Lái xe; nơi cư trú: tỉnh Quảng Ngãi; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Văn H và bà Phạm Thị T; có vợ là Huỳnh Thị Đ, có 02 con, lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/02/2022, có mặt

- Người bào chữa theo luật định cho bị cáo Tô Trọng T: Bà Phạm Thị Bích C - Luật sư Công ty Luật TNHH MTV M thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng; địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt, có gửi Luận cứ bào chữa, vắng mặt

- Bị hại: Anh Phạm Tiến T1; sinh ngày 26/9/2001 (đã chết);

Người đại diện theo pháp luật của bị hại Phạm Tiến T1:

+ Ông Phạm Tiến T, sinh năm 1975, có mặt + Bà Trương Thị Hồng T, sinh năm 1975, có mặt Cùng địa chỉ: thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đại diện hợp pháp của bị hại ông Phạm Tiến T, bà Trương Thị Hồng T: Ông Nguyễn Văn P - Luật sư Công ty Luật TNHH L và cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng; địa chỉ: thành phố Đà Nẵng, có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 01/02/2022, Tô Trọng T đến quán M ở phường P, thị xã Đ để nhậu, được khoảng 20 phút thì T đi về. Khi ra ngoài quán dắt xe, T làm ngã xe máy của Phạm Tiến T1, thì T1 nói “mày ngáo à”, T trả lời “mày nói ngáo là ngáo sao”, T1 nói “chứ sao đụng xe mà không nói tiếng nào vậy”, T trả lời “mới làm ngã xe mà mày làm gì dữ vậy rồi đi về. T1 vào quán nhậu tiếp, rồi sau đó cùng nhóm bạn đến quán C ở tổ dân phố 5, phường N, thị xã Đ để nhậu tiếp.

Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 02/02/2022, T1 nhắn tin qua ứng dụng messenger cho T hẹn T đến quán C để giải quyết mâu thuẫn. Sau khi nhận tin nhắn của T1, T liền xuống dưới nhà bếp lấy một con dao Thái lan dài 24,5 cm, cán bng nhựa màu nâu đen bọc vào túi quần sau bên trái, rồi điều khiển xe máy đến gần quán C. Lúc này, T1 cầm con dao chạy đến, hai tay T1 cầm con dao chém từ trên xuống về hướng T đang ngồi trên xe máy, T vừa dơ tay phải lên đỡ lưỡi dao vừa thả xe ngã xuống đường, đồng thời T né người sang trái (bên phải của T1) và dùng tay trái lấy con dao trong túi quần phía sau ra rồi cầm dao hướng về trước, đâm theo hướng từ trái sang phải vào vùng hông lưng bên phải của T1. Lúc này T1 chuyển dao từ tay phải sang tay trái và vung dao chém T từ trên xuống, T dùng tay phải nắm cán dao của T1, đồng thời T cầm dao tay trái, mũi dao hướng về trước và đâm theo hướng từ trái qua phải vào vùng bả vai của T1 03 nhát. Sau khi đâm, T đi bộ về hướng quán C; T1 đi theo một đoạn rồi gục ngã xuống đường bê tông. Lúc này, nhóm bạn của T1 trong quán C chạy ra dùng tay, chân đánh vào người, đầu của T rồi giật lấy con dao T đang cầm trên tay và sau đó đưa T1 đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi, đến khoảng 06 giờ ngày 02/02/2022 thì T1 chết. T được anh của T đưa đi Bệnh viện đa khoa Đặng T Trâm cấp cứu điều trị.

Tại Bản kết luận giám định số 10/TgT ngày 10/02/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ngãi, kết luận vết thương và nguyên nhân chết của bị hại Phạm Tiến T1 gồm: “Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Vùng sau cổ có 01 vết thương thủng da cơ nằm hơi xiên, hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, sâu vào trong, hờ mép vết thương sắc gọn, đầu trên tù, đầu dưới nhọn (V1).

+ Vùng bả vai trái có 01 vết thương rách da nằm xiên, hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, bờ mép vết thương sắc gọn, đầu trên nhọn, đầu dưới tù (V2).

+ Vị trí giữa khoang gian sườn số 4-5 phía sau bên phải (V3) có 01 vết thương sâu vào trong, bờ mép vết thương sc gọn, đầu trên tù, đầu dưới nhọn, có chiều hướng từ dưới lên trên, từ trái qua phải.

+ Vùng hông lưng phải có 01 vết thương dài 1,6cm, sâu vào trong 2,5cm, có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, đầu trên nhọn, đầu dưới tù (V4).

+ Bên trong khoang lồng ngực chứa nhiều máu lỏng lẫn máu đông.

+ Hai phổi đều xẹp. Mặt sau thùy giữa phổi phải (vị trí tương ứng vết V3) bị thủng 01 vết kt (2x1 )cm, sâu 0,5cm.

- Nguyên nhân chết: Tổn thương nhu mô phổi gây mất máu cấp, máu tràn ngập khoang lồng ngực.

Về Cơ chế hình thành dấu vết: vết thương (V1) do vật sắc nhọn tác động từ ngoài vào trong, hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, sâu vào trong, vết thương (V3) do vật sắc nhọn tác động từ ngoài vào trong hướng từ dưới lên trên, từ trái qua phải, sâu vào trong, vết thương (V2) và vết thương (V4) do vật sắc nhọn tác động từ ngoài vào trong, hưởng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, sâu vào trong”.

Tại Kết luận giám định số 175/KLGĐ-KTHS, ngày 18/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, kết luận: “Chất màu nâu bám dính trên con dao dài 39cm, gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu AB. Chất màu nâu bám dính trên con dao dài 24,5cm, gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu B. Trên hai đoạn gồ trụ tròn gửi giám định, không phát hiện dấu vết máu. Chất màu nâu đỏ bám dính trên sợi dây chuyền và mặt dây chuyền gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu AB. Chất màu nâu bám dính trên mảnh gạch vỡ ln, trên hai chiếc dép nhựa màu vàng, trên hai mảnh nhựa màu đen, trên các mảnh xốp vỡ màu trắng; trên chiếc dép nhựa màu trắng và trên chai bia “Tiger ” màu nâu, gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu AB. Mu máu thu trên mặt đường bê tông tại hiện trường gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu B. Mu máu thu của tử thi Phạm Tiến T1 gửi giám định thuộc nhóm máu B. Mu máu thu của Tô Trọng T, gửi giám định, thuộc nhóm máu AB”.

Kết luận giám định số 32/TgT, ngày 25/02/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ngãi, kết luận thương tích của Tô Trọng T: “Sẹo mu bàn tay phải kt (7,2x0,2)cm gây đứt gân duỗi ngắn ngón I: 03%. Sẹo vùng gò má phải kt (3x0,3)cm: 2,91%). Sẹo đầu xa ngón I bàn tay phải, gây mất móng: 2,82%. Gãy đốt 2 ngón I bàn tay phải: 1,82%. Sẹo vùng chẩm phải kt (3x0,4)cm: 0,89%. Sẹo kẽ ngón I, II bàn tay trái kt (4x0,3)cm: 0,88%. Tổng tỷ lệ phần trăm: 12,32%). Làm tròn s = 12%) (mười hai phần trăm). Tn thương vùng gò má phải và vùng chẩm phải phù hợp vật tày gây thương tích. Các tổn thương còn lại phù hợp vật sắc gây thương tích”. Quá trình điều tra Tô Trọng T không yêu cầu giải quyết đối với thương tích này.

Kết luận giám định số 168/KL-KTHS ngày 16/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận: Dữ liệu lưu trữ trong điện thoại di động loại màu đen, mặt kính trước sau bị bể vỡ, mặt sau điện thoại có hình logo và dòng chữ “Iphone”, có số EMEI: 357277091494396, bên trong thân máy có gán 01 thẻ sim Viettel có dãy số 8984048000316592342, trong thời gian từ ngày 01/02/2022 đến ngày 02/02/2022, bao gồm: Trích xuất được 109 tin nhắn trên ứng dụng Messenger, 33 tin nhắn trên ứng dụng Zalo và không có tin nhắn thoại.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2022/HS-ST ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Tô Trọng T phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng: Khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Tô Trọng T 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02/02/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, người đại diện theo pháp luật của bị hại Phạm Tiến T1 là ông Phạm Tiến T và bà Trương Thị Hồng T kháng cáo đề nghị xem xét lại Bản án sơ thẩm; với lý do:

- Xét xử vắng mặt người đại diện theo pháp luật của bị hại và ông Nguyễn Văn Phụng là người bảo vệ quyền, lợi ích hp pháp cho đại diện hợp pháp của bị hại; trong quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án không triệu tập đầy đủ người làm chứng đã chứng kiến sự việc xảy ra tại quán C để làm rõ sự thật của vụ án mà chỉ triệu tập Lương Thanh H và Dương Ngọc S là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

- Xét xử bị cáo Tô Trọng T với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” theo điểm n, khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

- Yêu cầu xem xét 01 USB của Quán C tại phiên tòa.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Ông Phạm Tiến T và bà Trương Thị Hồng T giữ nguyên kháng cáo.

+ Bị cáo Tô Trọng T khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nhận định.

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Tiến T và bà Trương Thị Hồng T

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trên cơ sở lời khai nhận tội của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Xuất phát từ việc bị cáo Tô Trọng T làm ngã xe của bị hại Phạm Tiến T1, hai bên nảy sinh mâu thuẫn, bị cáo T đã về nhà ngủ nhưng bị hại Phạm Tiến T1 đã chủ động nhiều lần nhắn tin cho Tô Trọng T hẹn T hẹn đến quán C ở tổ 5, phường N, thị xã Đ để giải quyết mâu thuẫn nên T mới cầm theo con dao đến gặp T1. Khi gặp bị hại T1, bị cáo T đã dùng dao (hung khí nguy hiểm) đâm nhiều nhát vào vùng lưng (là vùng trọng yếu trên cơ th) của bị hại dẫn đến bị hại Phạm Tiến T1 chết.

Vì vậy, hành vi của bị cáo Tô Trọng T đã phạm vào tội Giết người” được quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự như Tòa án cấp sơ thẩm kết án là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của người đại diện theo pháp luật của bị hại Phạm Tiến T1 là ông Phạm Tiến T và bà Trương Thị Hồng T:

[2.1] Ông Phạm Tiến T, bà Trương Thị Hồng T (là người đại diện hợp pháp của người bị hại); Luật sư Nguyễn Văn P (là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đại diện bị hại) và những người làm chứng đã được Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập hợp lệ. Tuy nhiên, tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ngày 19/9/2022, ông Phạm Tiến T, bà Trương Thị Hồng T có đơn đề nghị hoãn phiên tòa vì lý do sức khỏe nhưng không có chứng cứ để chứng minh; luật sư Nguyễn Văn Phụng và một số người làm chứng vắng mặt không có lý do. Đồng thời, ông T, bà T đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, không yêu cầu về phần dân sự; những người làm chứng đã có lời khai tại cơ quan điều tra nên việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xét xử là đúng quy định tại Điều 291, 292, 293 và 297 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2.2] Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập và lấy lời khai của các nhân chứng chứng kiến sự việc xảy ra giữa bị cáo Tô Trọng T với bị hại Phạm Tiến T1; đó là: Huỳnh Trần Thiện T, Lại Đình C, Nguyễn Lương H, Lương Thanh H, Mai Huỳnh Hoàng N, Dương Ngọc S, Lê Trung K và Trần Ngọc S. Các lời khai của các nhân chứng này có lời khai khác nhau về việc bị cáo Tô Trọng T sử dụng dao để gây án; có lời khai cho rằng T sử dụng 02 con dao: T trên tay cầm 02 con dao...; có lời khai T sử dụng 01 con dao mà Cơ quan điều tra đã thu giữ: “thấy T cầm một con dao...” và có lời khai do bị say rượu, trời tối và nghe người khác nói T cầm hai con dao nên đã khai với Cơ quan điều tra việc bị cáo T sử dụng 02 con dao để gây án: “Chúng tôi chạy ra thấy T cầm một con dao... nghe bạn nói T cầm 2 con dao nên khai với công an như vậy...; “vì lúc đó tôi cũng say, ánh sáng đèn hơi mờ. Nhân chứng Dương Ngọc S là người chứng kiến sự việc ngay sau khi T đâm T1 cũng khai bị cáo T chỉ sử dụng 01 con dao gây án: “Tôi thấy T có một con dao và đã đâm T1 nằm xuống...” Vì vậy, lời khai của các nhân chứng là bất nhất, có nhiều mâu thuẫn nên chưa đủ căn cứ để xác định bị cáo Tô Trọng T đã sử dụng 02 con dao mà Cơ quan điều tra đã thu giữ (tang vật vụ án) để tấn công bị hại Phạm Tiến T1 như kháng cáo đã nêu.

[2.3] Lời khai của bị cáo Tô Trọng T về việc bị hại Phạm Tiến T1 nhiều lần nhắn tin cho Tô Trọng T hẹn T hẹn đến quán C ở tổ 5 phường N thị xã Đức phổ để giải quyết mâu thuẫn và khi thấy bị cáo T đến thì Phạm Tiến T1 chạy đến, dùng hai tay cầm dao chém bị cáo T từ trên xuống; bị cáo T liền thả xe máy ngã và đưa tay phải lên đỡ thì bị thương ở bàn tay phải; T lấy con dao Thái Lan dài 24,5cm trong túi quần đâm vào vùng hông, lưng và vai của bị hại T1 và gây ra cái chết cho bị hại T1.

Lời khai của bị cáo Tô Trọng T nêu trên, phù hợp với dữ liệu lưu trữ trong điện thoại của bị cáo Tô Trọng T được Kết luận giám định số 168/KLGĐ-KTHS ngày 16/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, xác định bị hại Phạm Tiến T1 đã chủ động nhiều lần nhắn tin cho Tô Trọng T hẹn T hẹn đến quán C để giải quyết mâu thuẫn; phù hợp với lời khai của các nhân chứng Trần Ngọc S, Dương Ngọc S, Lê Trung K, Huỳnh Trần Thiện T và Lại Đình C về việc T chỉ sử dụng 01 con dao để gây án; phù hợp với Kết luận giám định số 175/KLGĐ-KTHS ngày 18/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, kết luận về việc 02 con dao đã thu giữ tại hiện trường vụ án; trong đó:

+ 01 con dao của bị cáo T sử dụng có dấu vết máu của bị hại Phạm Tiến T1 “Chất màu nâu bám dính trên con dao dài 24,5cm, gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu B...”;

+ 01 con dao của bị hại Phạm Tiến T1 sử dụng có dấu vết máu của bị cáo T “Chất màu nâu bám dính trên con dao dài 39cm, gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu AB ...” “Mu máu thu của tử thi Phạm Tiến T1 gửi giám định thuộc nhóm máu B. Mu máu thu của Tô Trọng T, gửi giám định, thuộc nhóm máu AB” (Như vậy, con dao của Dương Ngọc S lấy trong nhà ra không sử dụng, không thu giữ); phù hợp với việc bị cáo Tô Trọng T ngay sau khi gây án đã được anh Cao Tiến H đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Đặng T Trâm và tại hồ sơ bệnh án của bị cáo T do Bệnh viện đa khoa Đặng T Trâm cung cấp thể hiện bị cáo T bị các vết thương tích trên ngón tay phải, ngón tay trái và mu bàn tay phải...: “Sẹo mu bàn tay phải kt (7,2 x 0,2)cm gây đứt gân duỗi ngắn ngón I: 03%. Sẹo vùng gò má phải kt (3x0,3)cm: 2,91%. Sẹo đầu xa ngón I bàn tay phải, gây mất móng: 2,82%. Gãy đốt 2 ngón I bàn tay phải: 1,82%. Sẹo vùng chẩm phải kt (3x0,4)cm: 0,89%. Sẹo kẽ ngón I, II bàn tay trái kt (4x0,3)cm: 0,88%. Tổng tỷ lệ phần trăm: 12,32%. Làm tròn s = 12% (mười hai phần trăm). Tổn thương vùng gò má phải và vùng chẩm phải phù hợp vật tày gây thương tích. Các tổn thương còn lại phù hợp vật sắc gây thương tích”. Dữ liệu USB của quán C cung cấp đã được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi trích xuất (Kết luận giám định số 178/KLGĐ-KTHS, ngày 21/3/2022) được 07 hình ảnh nhưng không thể hiện được hiện trường, nơi đánh nhau giữa bị cáo T với bị hại T1 như lời khai của anh Dương Ngọc S- Chủ quán C: “Quán C của tôi có gắn camera ghi được vị trí nhóm bạn của tôi ngồi nhậu, còn vị trí xảy ra việc T đâm T1 là camera không ghi tới.”.

Vì vậy, kết luận điều tra, cáo trạng và bản án sơ thẩm của Tòa án nhận dân tỉnh Quảng Ngãi xác định nguyên nhân xuất phát từ một phần lỗi của bị hại, vì khi xảy ra việc ngã xe tại quán nhậu M, T đã về nhà của mình nhưng sau đó T1 đã chủ động nhắn tin cho T hẹn đến quán C để giải quyết mâu thuẫn, T mới cầm theo con dao đến gặp T1 và gây ra hậu quả thương tích đối với bị cáo, hậu quả chết người đối với bị hại. Cho nên, hành vi của bị can Tô Trọng T đã bị cấp sơ thẩm quy kết về tội “Giết người” theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật.

[2.4] Đây là vụ án “Giết người” với tính chất đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo Tô Trọng T có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý đã xâm phạm đến tính mạng của người khác, gây hoang mang lo lắng cho xã hội. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm sau khi xem xét nhân thân và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: T khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; gia đình bị cáo có công với cách mạng; bị hại cũng có phần lỗi được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để quyết định xử phạt bị cáo Tô Trọng T 06 (Sáu) năm tù là phù hợp và có căn cứ.

[3] Từ các nhận định nêu trên, HĐXX cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của đại diện hp pháp của bị hại Phạm Tiến T1.

[4] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Tiến T và bà Trương Thị Hồng T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2/ Áp dụng: Khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Tô Trọng T 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02/02/2022.

3/ Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị về xử lý vật chứng và về án phí sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 499/2022/HS-PT

Số hiệu:499/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về