Bản án về tội giết người số 491/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NNG
BẢN ÁN 491/2022/HS-PT NGÀY 25
/11/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 25 tháng 11 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và tại điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 449/2022/TLPT-HS ngày 11 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Rơ Lan Si M và các bị cáo khác về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2022/HSST-CTN ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Rơ Lan Si M, (Giám định pháp y về độ tuổi tính đến ngày 23/01/2022 là từ 17 năm 01 tháng đến 17 năm 7 tháng), tại huyện C, tỉnh Gia Lai. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xã C, huyện C, tỉnh Gia Lai. Nghề nghiệp: làm nông. Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Jrai; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông: Rơ Lan R, sinh năm: 1964 và bà Rơ Lan V, sinh năm: 1963; Vợ con chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đầu thú ngày 25/01/2022 và bị bắt ngày 23/3/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Rơ Lan S, sinh ngày 27/8/1996 tại huyện C, tỉnh Gia Lai. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: tỉnh Gia Lai. Nghề nghiệp: làm nông. Giới tính: nam. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Jrai; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12. Con ông: Rơ Lan R, sinh năm: 1964 và bà Rơ Lan V, sinh năm: 1963; bị cáo có vợ Siu Keo và 01 con sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 18/01/2017, bị TAND huyện C xử phạt 09 tháng tù giam về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo Bản án số 06/2017/HSST; ngày 09/12/2017 chấp hành xong hình phạt tù tại Trại giam X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên (Đã được xóa án tích). Bị cáo đầu thú ngày 25/1/2022 và bị bắt ngày 23/3/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.

3. Ksor T, sinh ngày 06/12/1997 tại huyện C, tỉnh Gia Lai. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: H. C, tỉnh Gia Lai. Nghề nghiệp: làm nông. Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Jrai; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 01/12. Con ông: Rmah Đ - sinh 1951 và bà Ksor H, sinh năm: 1961. Vợ: Rian H, sinh năm: 2000 và 01 người con sinh 2018. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đầu thú ngày 25/01/2022 và bị bắt ngày 23/3/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Rơ Lan Si M, Rơ Lan S: Ông Vũ Đình K, luật sư Văn phòng luật sư K thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai; địa chỉ: tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Ksor T: Ông Trần Đại H, luật sư Văn phòng luật sư T thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai; địa chỉ: tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Rơ Lan Si M: Bà Rơ Lan V, sinh năm 1963 (mẹ của bị cáo); trú tại: xã C, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người phiên dịch: Bà Nay H, Công tác tại UBND xã A thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 00’ ngày 23/01/2022, Kpă Đ, Kpă P, Kpă K cùng trú tại tỉnh Gia Lai, đến nhà Rlan Q, trú tại thôn I, xã C, huyện C, tỉnh Gia Lai chơi lúc này tại nhà Q có Rơ Lan Si M, Rmah D, Rơ Lan S, Rmah Đ và Ksor T đang ngồi chơi tại đây. Do Rmah D có mâu thuẫn với Đ từ trước nên khi thấy Đ đến D đã lấy 01 con dao dài khoảng 50cm, đuổi đánh Đ cùng Kpă P và Kpă K, nên tất cả cùng bỏ chạy. Sau đó Đ, P, K đi đến chòi canh khoai lang tại thôn K, xã C, huyện C, tỉnh Gia Lai của anh Rlan I. Tại đây, Kpă Đ kể lại sự việc vừa xảy ra cho Rlan I nghe. Rlan I nói có quen biết với thanh niên trong thôn I nên I sẽ đi cùng Kpă Đ sang nói chuyện để giải quyết mâu thuẫn.

Đến khoảng 22 giờ 00’ cùng ngày, Rlan I và Kpă Đ đi đến nhà của Rlan Q thì gặp Rơ Lan Si M, I hỏi M: “Nãy thằng nào đánh bạn tao?”. Rơ Lan Si M nói: “Vụ đấy tao không biết”. Giữa Rlan I và Rơ Lan Si M xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau, Rơ Lan Si M bỏ đi gọi anh ruột là Rơ Lan S Rmah Đ, Rmah D và Ksor T, đang chơi tại đây ra đánh Rlan I và Đ. Sau đó, Rơ Lan Si M, Rơ Lan S và Rmah D mỗi người nhặt một đoạn cây gỗ, Rmah Đ cầm theo một con dao đi ra đường tìm để đánh Rlan I.

Khi thấy Rlan I và Kpă Đ đang đứng ngoài đường; Rmah Đ cầm dao chạy ra chém trúng vào cánh tay trái của Kpă Đ (không gây thương tích) thì Đ bỏ chạy. Rơ Lan Si M cầm đoạn cây gỗ đánh vào tay phải của I. Thấy hai người đánh nhau, Rơ Lan S đẩy Si M ra rồi ôm vật ngã Rlan I xuống đường nhựa, S ngồi đè trên bụng, giữ hai tay của Rlan I đè xuống đường, Rơ Lan Si M cầm cây gỗ đánh vào đầu của Rlan I; Rmah Đ cầm dao chém vào đầu của Rlan I; Rmah D cầm cây gỗ đánh vào đầu của Rlan I (lúc này đầu của Rlan I đang đội mũ bảo hiểm); Ksor T chạy đến giật lấy mũ bảo hiểm của Rlan I đang đội trên đầu và cầm mũ bảo hiểm này đánh vào mạnh nhiều cái vào đầu vào mặt của Rlan I làm anh I bị vỡ nhãn cầu mắt trái. Lúc này anh I la hét lên “Bể mắt rồi” nên các bị cáo dừng lại không đánh nữa, anh I ngồi dậy ôm mắt, thì bị Rơ Lan Si M tiếp tục dùng chân đá thêm một cái trúng lưng anh I rồi các bị cáo bỏ đi.

Sau khi các bị cáo đánh gây thương tích anh RơLan I được đưa đến Trung tâm y tế Cao su C cấp cứu, sau đó được chuyển tuyến đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai tiếp tục cấp cứu và điều trị. Đến ngày 31/01/2022 thì anh I được xuất viện.

Ngày 25/01/2022 và ngày 05/02/2022, Rơ Lan Si M, Rơ Lan S, Rmah D, Ksor T và Rmah Đ đã ra đầu thú, giao nộp 01 con dao đã sử dụng chém Rlan I.

* Kết quả giám định.

- Tại Bản giám định pháp y về thương tích số 38/22/TgT ngày 02/3/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh Gia Lai kết luận đối với bị hại Rlan I:

- Một sẹo vết thương phần mềm vùng thái dương phải, kích thước (4x0,3)cm, sẹo liền, màu tím nhạt, bờ mép đều rõ 02%.

- Một sẹo vết thương phần mềm mi trên mắt phải đến đuôi mắt phải, kích thước (3x0,2) cm, sẹo liền, màu tím nhạt, bờ mép đều rõ 03%.

- Chn thương mắt trái đã phẫu thuật múc bỏ nội nhãn 53%.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 55% (Năm mươi lăm phần trăm). Áp dụng phương pháp cộng theo Thông tư 22/2019/TT-BYT.

- Tại Bản giám định số: 67/KLGĐ, ngày 22/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận:

1. Trên con dao dài 51 cm, lưỡi bằng kim loại dài 31,5 cm, trên mặt lưỡi dao có chữ: “TRỌNG IATOB 2005”, cán dao bằng tre, dài 19,5 cm, đường kính 03 cm gửi giám định: Có máu người, do lượng mẫu ít nên không xác định được nhóm máu hệ ABO.

2. Trên thanh gỗ dài 64,5 cm, phần thần rộng nhất có kích thước (6x6,5) cm gửi giám định: Không phát hiện có máu.

3. Trên thanh gỗ dài 64 cm, phần thần rộng nhất có kích thước (5x5,5) cm, gửi giám định: Không phát hiện có máu.

4. Chất màu nâu nghi máu thm trên hai đầu bông của 03 que tăm bông gửi giám định: Là máu người, nhóm máu A.

5. Chất màu nâu nghi máu dính trên tm vải lót màu xám đen phía trong mũ bảo hiểm màu trắng đã bị bể vỡ gửi giám định: Là máu người, nhóm máu A.

6/ Mu máu ghi thu máu Rlan I: Nhóm máu A.

* Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ:

- 01 (một) con dao dài 51 cm, lưỡi bằng kim loại dài 31,5cm, cán dao bng tre, dài 19,5cm, đường kính 03cm; 01 (một) thanh gỗ dài 64,5cm; 01 (một) thanh gỗ dài 64cm; 01 (một) mũ bảo hiểm màu trắng đã bị bể vỡ; 03 (ba) que tăm bông (loại hai đầu bông) còn lại sau giám định; 01 (một) cục bông thấm máu ghi thu máu Rlan I.

* Về phần dân sự trong vụ án: Đ diện hợp pháp cho các bị cáo: Rơ Lan Si M, Rơ Lan S, Rmah D, Ksor T, Rmah Đ đã thỏa thuận, tự nguyện bồi thường cho người bị hại các chi phí khám, điều trị thương tích, bồi thường tổn hại về sức khỏe với tổng số tiền là 220.000.000đ (và 02 (hai) con heo nặng tổng cộng 100kg theo phong tục người địa phương (trong đó mỗi bị cáo bồi thường số tiền là 44.000.000đ). Ngày 16/6/2022, bị hại anh Rlan I đã nhận đủ tiền và có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2022/HSST-CTN ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Rơ Lan Si M, Rơ Lan S, Rmah D, Ksor T, Rmah Đ phạm tội “Giết người” Về hình phạt:

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38; 17; 15; 57; 91; 101 và Điều 54 Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Rơ Lan Si M 09 (Chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2022.

+ Xử phạt bị cáo Rmah Đ 09 (Chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2022.

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38; 17; 15; 57 và Điều 54 của Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Rơ Lan S 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2022.

+ Xử phạt bị cáo Rmah D 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2022.

+ Xử phạt bị cáo Ksor T 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 12 và ngày 20/9/2022 các bị cáo Ksor T, Rơ Lan S và Rơ Lan Si M có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Ksor T, Rơ Lan S và Rơ Lan Si M vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo như trong đơn; do vậy đề nghị HĐXX giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.

Đ diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng trình bày quan điểm: kháng cáo của các bị cáo Ksor T, Rơ Lan S và Rơ Lan Si M là hợp lệ đúng pháp luật được xem xét theo thủ tục phúc thẩm; các bị cáo kháng cáo đề nghị sửa án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay, qua tranh luận xét thấy việc điều tra là đầy đủ, toàn diện. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Ksor T 12 năm tù, Rơ Lan S 12 năm tù và Rơ Lan Si M 09 năm tù về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo kháng cáo, tuy không cung cấp được chứng cứ nào mới, nhưng hình phạt đối với bị cáo Ksor T và Rơ Lan Si M có phần nghiêm khắc, đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Rơ Lan S; chấp nhận kháng cáo và giảm một phần hình phạt cho bị cáo Ksor T và Rơ Lan Si M.

Các luật sư bào chữa cho các bị cáo thống nhất như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Ksor T và Rơ Lan Si M; riêng bị cáo Rơ Lan S cũng có nhiều tình tiết giảm nhẹ đã nêu, ngoài ra bị cáo còn có người thân trong gia đình tham gia cách mạng, nên đề nghị áp dụng Điều 54 giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Ksor T, Rơ Lan S và Rơ Lan Si M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, của những người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ đã thu thập được. Như vậy, có đủ căn cứ quy kết các bị cáo Ksor T, Rơ Lan S và Rơ Lan Si M có hành vi phạm tội như sau: vào lúc 22h ngày 23/01/2022 tại thôn I, xã C, huyện C, tỉnh Gia Lai, thấy bạn mình là Kpă Đ bị Rmah D lấy dao đuổi đánh, nên Rlan I đến gặp Rmah D để nói chuyện phải không; nhưng Rơ Lan Si M gọi Rơ Lan S, Rmah Đ, Rmah D và Ksor T dùng dao, gậy gỗ, mũ bảo hiểm đánh anh Rlan I gây thương tích vỡ nhãn cầu mắt thương tật thị lực vĩnh viễn với tỷ lệ 55%. Với hành vi và hậu quả như trên; Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Ksor T 12 năm tù, Rơ Lan S 12 năm tù và Rơ Lan Si M 09 năm tù về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự và công nhận việc bồi thường thiệt hại cho bị hại 220.000.000 đồng.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo; HĐXX thấy rằng:

[2.1] Bị cáo Rơ Lan Si M là người rủ rê, lôi kéo các bị cáo Ksor T, Rơ Lan S, Rmah D và Rmah Đ cùng nhau đi tìm Rlan I để đánh, bị cáo là người dùng cây gỗ trực tiếp đánh vào tay và đầu của anh Rlan I góp phần gây nên thương tích cho người bị hại. Bị cáo bị truy tố theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại theo các điểm b, s khoản 1 và các tình tiết khác theo khoản 2 Điều 51; đồng thời áp dụng các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội và Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Rơ Lan Si M 09 (chín) năm tù; dưới khung hình phạt là không nặng. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới; do vậy HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[2.2] Bị cáo Rơ Lan S là người mang theo hung khí nguy hiểm, là người trực tiếp vật ngã anh Rlan I xuống đất rồi ngồi đè trên bụng và giữ tay anh Rlan I cho các bị cáo khác dùng hung khí nguy hiểm, đánh, chém vào người bị hại. Bị cáo bị truy tố theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ nhu thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại theo các điểm b, s khoản 1 và các tình tiết khác theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Rơ Lan S 12 (mười hai) năm tù; mức thấp nhất khung hình phạt là không nặng. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới; do vậy HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[2.3] Bị cáo Ksor T là người là người trực tiếp giật mũ bảo hiểm anh Rlan I đang đội và dùng mũ đập mạnh nhiều cái vào đầu vào mặt anh Rlan I làm vỡ nhãn cầu mắt trái anh Rlan I. Bị cáo bị truy tố theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại theo các điểm b, s khoản 1 và các tình tiết khác theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Ksor T 12 (mười hai) năm tù; mức thấp nhất khung hình phạt là không nặng. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới; do vậy HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Kháng cáo của các bị cáo Ksor T, Rơ Lan S và Rơ Lan Si M không được chấp nhận; nên các bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ksor T, Rơ Lan S và Rơ Lan Si M về việc xin giảm nhẹ hình phạt; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2022/HSST-CTN ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân tình Gia Lai.

Tuyên bố các bị cáo Rơ Lan Si M, Rơ Lan S, Ksor T phạm tội “Giết người”

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38; 17; 15; 57; 91; 101 và Điều 54 Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Rơ Lan Si M 09 (Chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2022.

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38; 17; 15; 57 và Điều 54 của Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Rơ Lan S 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2022.

+ Xử phạt bị cáo Ksor T 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2022.

2. Án phí phúc thm: các bị cáo Ksor T, Rơ Lan S và Rơ Lan Si M mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự phúc thm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (25/11/2022).

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 491/2022/HS-PT

Số hiệu:491/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về