Bản án về tội giết người số 386/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 386/2022/HS-PT NGÀY 13/06/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 13 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 145/2022/TLPT-HS ngày 24 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Trần Thanh H.

Do có kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 17 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Trần Thanh H, sinh năm 1981 tại Kiên Giang; Nơi ĐKTT: Ấp 9 Chợ, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang; Nơi cư trú hiện nay: Ấp T, xã Đ, huyện A, tỉnh K; Nghề nghiệp: Mua bán, trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Vũ S và bà Nguyễn Thị Kim H; anh chị em ruột: 04 người, lớn nhất sinh năm 1976, nhỏ nhất sinh năm 1992; vợ: Trần Thị Long A; con có 02 người, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/9/2019 cho đến nay (có mặt).

- Nguời bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Trần Thanh H: Luật sư Thái Đức G – Đoàn Luật sư tỉnh K (có mặt).

- Bị hại: Ông Nguyễn Tuấn A (đã chết);

- Người đại diện hợp pháp của người bị hại (có kháng cáo): Bà Thái Kim L, sinh năm 1982, (vợ của bị hại Tuấn A). Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện A, tỉnh K (có mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đại diện người bị hại: Luật sư Trần Q - Văn phòng luật sư Q thuộc Đoàn luật sư tỉnh K (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1942 (mẹ ruột của bị hại Tuấn A);

Địa chỉ: Ấp 9 Chợ, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bà L: ông Nguyễn Tuấn E, sinh năm 1982 (con ruột của bà L). Địa chỉ: Ấp 9 Chợ, xã Đ, huyện A, tỉnh K.

2. Bà Nguyễn Kim Q, 67 tuổi (mẹ ruột bị cáo Trần Thanh H);

Địa chỉ: Ấp 9 Chợ, xã Đ, huyện A, tỉnh K.

- Người làm chứng:

1. Trần Thị Long A, sinh năm 1987; Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

2. Huỳnh Đỗ Mỹ T, sinh năm 1988; Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

3. Nguyễn So N, sinh năm 1989; Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

(Trong vụ án này người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Gia đình Trần Thanh H và gia đình Nguyễn Tuấn A có mối quan hệ sui gia, cùng ngụ tại Ấp T, xã Đ, huyện A, tỉnh K. Quá trình sinh sống, mua bán giữa hai bên xảy ra mâu thuẫn và thường xuyên cải nhau. Vào khoảng gần 17 giờ ngày 07/9/2019, sau khi đi nhậu và đánh bida về thì H cự cãi, chửi chị Thái Kim L (vợ của bị hại Nguyễn Tuấn A), thấy H đã say rượu nên chị Lén khuyên H về và nói: “sao ông say rượu ông mới nói, lúc không có rượu sao không nói”, sau đó H bỏ đi về nhà. Một lúc sau, Nguyễn Tuấn A đang ngủ trong nhà thức dậy, đi ra ngoài sân thì Trần Thị Long A (vợ H) có lời lẽ thô tục nên Tuấn A với A và H tiếp tục chửi nhau. Do đã có rượu nên H thách và rủ Tuấn A đánh nhau, H nói “Tao lấy dao đâm chết mẹ mày”, ngay sau đó H chạy vào phía sau nhà biếp lấy 01 cây dao Thái Lan cán bằng nhựa màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng, đầu mũi dao nhọn chạy qua chỗ Tuấn A đang ngồi ở hàng ba ngoài sân. Tuấn A đứng dậy thì có bà Tài (mẹ vợ Tuấn A), chị Lén ôm can ngăn; An cũng chạy theo phía sau. Khi H vừa chạy đến đứng đối diện thì Tuấn A dùng chân đạp trúng phía trước làm H té ngã ngồi ra phía sau, H tiếp tục chồm người đứng dậy nên Tuấn A dùng chân phải đạp tiếp; H liền cầm dao đâm một nhát vào đùi của Tuấn A nên Tuấn A nói “mày có dao hả”. Bà Tài, chị Lén thấy Tuấn A bị đâm vào đùi chảy nhiều máu nên la lớn. An ôm kéo H đi về nhà, H ngồi trước nhà nói lớn “Tao đâm mày chết mẹ xong tao đi xứ khác ở, ai làm gì tao”. Thấy Tuấn A gục xuống nên mọi người cùng đưa đi cấp cứu nhưng Tuấn A đã chết trước khi đến Bệnh viện huyện A. Sau đó, Trần Thanh H bị bắt giữ.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 552/KL-KTHS ngày 05/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang đối với Nguyễn Tuấn A kết luận:

1) Các kết quả chính:

- Vết thương đùi phải, kích thước 8,5cm x 4cm, sâu 8cm, bờ mép vết thương sắc gọn, chiều hướng từ trái sang phải và chếch lên trên.

- Tụ máu dưới da và cơ vùng vết thương đùi phải.

- Đứt động mạch đùi phải.

2) Nguyên nhân tử vong: Sốc mất máu cấp do vết thương đùi phải gây đứt động mạch đùi phải.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y vật gây thương tích số 658/KL-KTHS ngày 31/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: Cây dao gửi giám định gây được các thương tích trên người nạn nhân Nguyễn Tuấn A.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 17 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, đã quyết định:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, c khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Trần Thanh H phạm tội “Giết người”.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh H 14 (mười bốn) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ là ngày 08/9/2019.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/01/2022, bà Thái Kim L là người đại diện hợp pháp của người bị hại kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Trần Thanh H.

Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về nội dung: Xét thấy chỉ vì bất đồng, mâu thuẫn không đáng và do chính bị cáo khởi sự, nhưng bị cáo lại hung hăng dùng dao là hung khí nguy hiểm xong đến tận nhà của người bị hại đâm vào người bị hại dẫn đến tử vong. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Thanh H 14 năm tù về tội “Giết người” là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, đại diện người bị hại kháng cáo yêu cầu tăng nặng hình phạt đối với bị cáo H, nhưng không xuất trình được thêm tình tiết nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của đại diện người bị hại và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu:

Hành vi của bị cáo không quyết liệt thể hiện qua hành động chỉ đâm một nhát vào vùng không trọng yếu, phạm tội khi say rượu không làm chủ được hành vi của mình, vì thế mức án 14 năm tù mà cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là phù hợp. Do đó Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp người bị hại.

Luật sư bào chữa cho bị hại phát biểu:

Giữa bị cáo và gia đình người bị hại không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ vì những va vấp nhỏ trong cuộc sống khi sinh sống và buôn bán cùng nhau, nhưng bị cáo luôn có hành vi gây hấn, tranh cãi mỗi khi say rượu nên dẫn đến hành vi giết người của bị cáo Trần Thanh H. Sau khi phạm tội, bị cáo và gia đình không có thiện chí trong việc bồi thường, có lời lẽ gây bức xúc cho gia đình nạn nhân. Đồng thời mức án mà cấp sơ thẩm tuyên phạt là nhẹ, không tương xứng khi tước đoạt tình mạng của người khác. Do đó Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo, tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Trần Thanh H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Kháng cáo của bà Thái Kim L là người đại diện hợp pháp của người bị hại đúng về hình thức, nội dung và được nộp trong hạn luật định nên được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thanh H thừa nhận bản thân đã thực hiện hành vi dùng dao đâm người bị hại Nguyễn Tuấn A dẫn đến tử vong đúng như bản án sơ thẩm nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai của những người làm chứng, các kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, có căn cứ để kết luận: chỉ vì bất đồng, mâu thuẫn không đáng và do chính bị cáo cáo khởi sự, nhưng bị cáo lại hung hăng dùng dao là hung khí nguy hiểm xông đến tận nhà của người bị hại đâm vào đùi người bị hại dẫn đến tử vong do sốc mất máu cấp. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu tăng hình phạt tù lên thành chung thân đối với bị cáo.

Hội đồng xét xử thấy rằng chính bị cáo H là người gây sự, dùng lời lẽ xúc phạm, thách thức đối với người bị hại Nguyễn Tuấn A và trực tiếp lấy dao từ nhà của mình sang đến tận nhà người bị hại de dọa, nên việc bị hại Tuấn A có hành vi dùng chân tác động vào bị cáo để chống trả lại là phù họp. Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thấy rằng, hành vi bị cáo thực hiện là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng, quyền được sống của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi của bị cáo không những gây đau thương, mất mát cho gia đình người bị hại mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó cần phải xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm khắc để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm như: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; thành khẩn khai báo, thể hiện có sự ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình người bị hại. Tuy nhiên mức án 14 năm tù mà cấp sơ thẩm tuyên phạt về tội “Giết người” là nhẹ, không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó cần chấp nhận một phần kháng cáo đề nghị của người đại diện hợp pháp cho người bị hại và đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho gia đình người bị hại, tăng hình phạt đối với bị cáo.

Đối với kháng cáo của đại diện hợp pháp người bị hại cho rằng bị cáo có hành vi côn đồ, hiện nay gia đình bị cáo có khả năng bồi thường nhưng gia đình bị cáo không bồi thường, tình tiết này đã được cấp sơ thẩm xem xét khi quyết định hình phạt. Ngoài ra, đối với việc thi hành án về bồi thường, cấp dưỡng sẽ được thi hành sau khi bản án có hiệu lực pháp luật và theo quy định pháp luật về thi hành án.

[3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại phiên tòa và quan điểm bào chữa cho bị cáo của luật sư đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của đại diện người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bà Thái Kim L không phải chịu.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Chấp nhận kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo của đại diện hợp pháp người bị hại.

Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 17 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang về hình phạt đối với bị cáo Trần Thanh H.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, c khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

2. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh H phạm tội “Giết người”.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh H 16 (mười sáu) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ là ngày 08/9/2019.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm (về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm) không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Bà Thái Kim L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

476
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 386/2022/HS-PT

Số hiệu:386/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về