Bản án về tội giết người số 196/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 196/2022/HSPT NGÀY 08/06/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 08 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 159/2022/TLPT-HS ngày 06 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Trần Minh C về tội “Giết người Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2022/HS-ST ngày 29/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

* Bị cáo có kháng cáo:

Trần Minh C (Tên gọi khác: Không có), sinh ngày 08/01/2002 tại tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Làm biển; nơi cư trú: TDP K, phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần T (chết); bà Trần Thị H, sinh năm: 1972; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 27/11/2020; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa theo luật định cho bị cáo Trần Minh C: Ông Đoàn Nhật N1 - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Ngãi; xin xét xử vắng mặt và có luận cứ bào chữa.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 05/8/2020, Trần Thanh K, Trần Minh C, Ngô Gia H1, Võ Đông S, Cao Tấn S1, Trần Ngọc V1, Nguyễn Thành L, Phạm Nguyễn Thiên L1, Nguyễn Văn Chín T1 và Huỳnh Tấn T2 cùng uống bia tại bãi đất trống gần nhà nghỉ KC thuộc phường Pl, thị xã Đ. Tại đây, K kể lại việc trước đây bị Tô Đức A, Phan Hữu K1 đuổi đánh. Nghe vậy, L nói để L điện thoại cho A đến để nói chuyện giải hòa. Khoảng 30 phút sau A, K1, Dương Hiển K2, Võ Duy T3 và Trần Anh Đ3 đều trú tại TDP Hiển Văn, phường Phổ Hòa, thị xã Đ đến chỗ nhóm K đang uống bia. Đến nơi K2, T3 và Đ3 ở ngoài xe chờ, còn A, K1 vào chỗ nhóm K đế nói chuyện. K không đồng ý giải hòa và nói “ra đường gặp đâu đánh đó”. Nghe K nói vậy, A và K1 ra về. K2 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 72F6-8521 chở A và K1, T3 và Đ3 đi xe riêng về nhà. Khi nhóm A, K1, K2 vừa đi thì L nói với nhóm của mình: “Tụi nó ra đường rồi, có đánh thì đuổi theo đánh”, cả nhóm nghe vậy đều đồng ý nên cùng đứng dậy lấy xe đuổi theo nhóm K1, A, K2. L điều khiển xe 76H1-106.69 chở V1 (V1 cầm theo cây tuýp sắt vuông, có cạnh 02cm, dài 128cm) đi trước; C điều khiển xe 76H1-391.30 chở K và S1 (K mang theo con dao Thái Lan dài 18cm, cán dao màu vàng); L1 điều khiển xe 76X5-5892 chở S; T1 điều khiển xe 76H 1-259.49 đi theo để xem nhóm của mình duỗi theo như thế nào, nếu có đánh nhau thì ngăn cản, H1 thấy T1 đi một minh và nhóm của mình đã đi trước nên nhờ T1 chở đi. Nhóm của L duỗi theo nhóm của K1, A, K2 đến đoạn đường H2 (trước Bệnh viện Đa khoa Đ4) thì L chở V1 đuổi kịp và chặn đầu xe K2 nhưng K2 tránh được rồi tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy, C điều khiển xe đuổi theo vượt lên bên phải xe K2 và dùng chân trái đạp một cái vào xe K2 làm xe bị chao đảo nhưng không ngã, K2 tiếp tục điều khiển xe chạy vào đường P2 thì C và đồng bọn tiếp tục đuổi theo, khi đến đoạn trước Quảng Trường Y (thuộc phường N2, thị xã Đ) thì C đuổi kịp xe K2 và vượt lên bên phải rồi dùng chân trái đạp vào bánh xe trước của K2 làm xe và K2, A, K1 ngã xuống đường trượt một đoạn dài khoảng 15m. A, K1, K2 đứng dậy bỏ chạy, A chạy về hướng đường P2 thi K cầm dao thái lan ví theo đánh nhưng không duỗi kịp. Lúc này, C lấy một khúc gỗ đập xe mô tô biển kiểm soát: 72F6-8521 của nhóm K2, K quay lại chỗ C lấy cây gỗ C đang cầm tiếp tục đập xe mô tô 72F6-8521 làm bể, hư hỏng rồi vứt cây gỗ tại hiện trường; K2 bỏ chạy về hướng rừng keo gần Thị Đội Đ nhưng không có ai đuổi theo; K1 bỏ chạy vào trong Quảng Trường thì bị V1 cầm cây tuýp sắt, L cầm hòn đá (có hình khối tam giác, nặng 07kg) và S1 đuổi theo K1, khi V1 đuổi kịp (cách nhau khoảng 01m, trong tư thế K1 quay lưng về phía V1), V1 cầm cây tuýp sắt bằng tay phải đánh từ trên xuống một cái trúng vào đỉnh đầu của K1, K1 dùng hai tay ôm đầu bỏ chạy, V1 tiếp tục đuổi theo rồi dùng cây tuýp sắt đánh liên tiếp hai đến ba cái từ trên xuống nhằm vào đầu K1 nhưng trúng tay K1 (do K1 đang dùng tay ôm đầu), K1 chạy được một đoạn đến bãi cỏ phía Bắc Quảng Trường thì bị ngã ngửa, hai tay ôm đầu, che mặt, V1 chạy đến đứng sát chân bên phải của K1 cầm cây tuýp sắt bằng hai tay đánh hai đến ba cái từ trên xuống nhằm vào vùng đầu K1 nhưng trúng tay do K1 đang ôm đầu. Lúc này, T1 điều khiển xe chở H1 chạy vào Quảng Trường đến chỗ K1, thấy K1 bị V1 đánh nên T1 đến ngăn cản V1, giật cấy tuýp sắt V1 đang cầm đánh K1 vứt đi và kéo V1 ra. L cầm hòn đá (nặng 07kg) đến đứng sát hông trái của K1, dùng hai tay cầm hòn đá đánh từ trên xuống hai cái vào vùng đầu của K1 nhưng trúng vào tay do K1 đang dùng tay ôm đầu, L chuẩn bị đánh tiếp thì T1 ngăn cản và hất văng hòn đá rơi sang một bên, S1 xông vào đến đứng sát hông bên phải của K1, dùng tay trái nắm cổ áo của K1 kéo K1 lên rồi dùng tay phải đánh một cái vào mặt K1 và dùng chân phải đạp một cái vào bụng K1 thì T1 ngăn cản S1 ra. L1 điều khiển xe chở S đến chỗ K1 bị đánh, S xuống xe chạy đến đứng bên hông trái của K1 rồi dùng chân trái đá một cái trúng vào bụng K1; H1 đi cùng với T1 đến thấy đồng bọn đánh K1 nhiều cái nên không vào đánh mà chạy từ trong Quảng Trường ra chỗ xe của nhóm K2, A, K1 bị ngã ban đầu, nhặt cây gỗ mà C, K trước đó dùng để đập xe tiếp tục đập xe và bẻ gạt chắn bùn bánh xe trước của xe mô tô 72F6-8521. Lúc này, L1 thấy có Công an đến nên la lớn “có Công an tới” thì cả nhóm lên xe tẩu thoát khỏi hiện trường.

* Kết quả giám định thương tích:

Ngày 22/9/2020, Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ngãi tiến hành giám định pháp y và kết luận thương tích của các bị hại như sau:

- Đối với Phan Hữu K1: Bị tổn thương cơ thể gồm: Gãy xương trụ phải 10%, 01 sẹo đỉnh đầu 0,90%, 01 sẹo cổ tay phải 0,89%, 01 sẹo gối phải 0,88%, 01 sẹo dát lông mày phải 0,87%. Tổng cộng 14%.

- Đối với Dương Hiển K2 gồm: 01 sẹo dát vùng mặt phải 03%, 01 sẹo môi trên phải 2,91%, 03 sẹo dát đùi - cẳng chân trái 2,82%, 01 sẹo dát ngực trái 0,91%, 01 sẹo dát lông mày trái 0,90%. Tổng cộng 11%.

- Đối với Tô Đức A: Bị tổn thương cơ thể gồm: 01 sẹo khuỷu tay phải 01%, 01 sẹo cổ tay trái 01%. Tổng cộng: 02%.

* Kết luận định giá tài sản xe mô tô bin kiểm soát 72F6 - 8521:

Ngày 22/8/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đ tiến hành định giá và kết luận: Giá trị thiệt hại của 01 xe mô tô mang BKS: 72F6-8521, nhãn hiệu MAJESTY, loại xe WAVE là: 210.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2022/HS-ST ngày 29/3/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo: Trần Minh C phạm tội “Giết người”.

Áp dụng: Điểm b, 1, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 57; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Minh C: 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 27/11/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04 tháng 4 năm 2022, bị cáo Trần Minh C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và giữ y hình phạt đối với bị cáo Trần Minh C.

+ Bị cáo Trần Minh C giữ nguyên kháng cáo và khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Minh C khai nhận giữa bị cáo với các bị hại trong vụ án không có mâu thuẫn nhưng khi nghe các đồng phạm trong vụ án rủ đuổi theo đánh nhóm của các bị hại Tô Đức A, Phan Hữu K1 và Dương Hiển K2 thì bị cáo đồng ý. Bị cáo Trần Minh C điều khiển xe chở các bị cáo Trần Thanh K, Cao Tấn S1 cùng các đồng phạm mang theo hung khí nguy hiểm (dao, tuýp sắt, hòn đá nặng 07 kg...) đuổi theo xe bị hại Dương Hiển K2. Quá trình rượt đuổi bị cáo Trần Minh C dùng chân đạp vào xe của bị hại K2 làm xe chao đảo, tiếp tục lần thứ 02 bị cáo đạp vào bánh xe trước của K2 làm xe và các bị hại K2, A, K1 ngã xuống đường trượt một đoạn dài 15m tạo điều kiện cho các đồng phạm sử dụng hung khí đánh các bị hại, gây ra tổn thương cơ thể (đỉnh đầu, vùng mặt, cổ tay, chân,.) đối với bị hại Phan Hữu K1 là 14%, Dương Hiển K2 là 11% và Tô Đức A là 02%.

Lời khai của bị cáo Trần Minh C phù hợp với lời khai của các bị hại Tô Đức A, Phan Hữu K1 và Dương Hiển K2; phù hợp với lời khai của các đồng phạm trong vụ án là các bị cáo Nguyễn Thành L, Trần Ngọc V1, Trần Thanh K, Cao Tấn S1, Võ Đông S, Phạm Nguyễn Thiên L1 và Ngô Gia H1 và phù hợp với Kết quả giám định thương tích ngày 22/9/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ngãi cùng các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Do đó, HĐXX cấp phúc thẩm có đủ căn cứ để kết luận: Hành vi của bị cáo Trần Minh C đã phạm vào tội: “Giết người”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm b, 1, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự như Tòa án cấp sơ thẩm quy kết là có căn cứ, đúng người và đúng tội.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Minh C: Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Minh C mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Tuy bị cáo không trực tiếp sử dụng hung khí nguy hiểm để đánh các bị hại trong vụ án nhưng hành vi nhiều lần đạp vào xe mô tô đang chở nhiều bị hại (bị hại K2, A, K1) có thể làm chết các bị hại và giúp sức cho các bị cáo khác trong vụ án thực hiện hành vi phạm tội như đã thống nhất từ trước. Tại thời điểm phạm tội, các bị hại Phan Hữu K1 chỉ mới hơn 15 tuổi. Vì vậy, Bị cáo Trần Minh C phạm tội với 03 tình tiết định khung tăng nặng; đó là: “Giết người dưới 16 tuổi”, “Có tính chất côn đồ” và “Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” quy định tại điểm b, 1, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Cho nên, Tòa án cấp sơ thẩm sau khi đánh giá tính chất của vụ án, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình bồi thường cho bị hại; bị hại cùng đại diện hợp pháp của các bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và trường hợp phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt) để quyết định xử phạt bị cáo 09 (chỉn) năm tù là tương xứng, không nặng; Tại Tòa án cấp phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ mới để xem xét. Do đó, HĐXX cấp phúc thẩm không thể chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Minh C.

[3] Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo C phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự phúc thẩm.

[4] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Minh C và giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm;

Áp dụng: Điểm b, 1, n khoản 1 Điều 123; điểm b, S khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 57; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Minh C: 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 27/11/2020.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo khác, về xử lý vật chứng và về án phí sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Trần Minh C phải chịu án phí phúc thẩm là 200.000 đồng.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

405
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 196/2022/HSPT

Số hiệu:196/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về