Bản án về tội giết người sô 18/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 18/2021/HS-PT NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 923/2020/TLPT-HS ngày 28 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Phạm Văn Th do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2020/HS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương.

* Bị cáo kháng cáo:

Phạm Văn Th, sinh năm 1989, tại tỉnh Hải Dương; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu dân cư G, phường T, Tnh phố C, tỉnh Hải Dương; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 09/12; Con ông Phạm Văn T, sinh năm 1965 và bà Phạm Kim Th, sinh năm 1969; Gia đình có 02 anh em, Th là con thứ nhất; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2020 (Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hải Dương). Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đoàn Văn H thuộc Văn phòng luật sư N, Đoàn luật sư tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Phạm Đức T, sinh năm 1975 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại không kháng cáo: Bà Mạc Thị NH sinh năm 1946, chị Phạm Thị Th sinh năm 1977, cháu Phạm Thị Khánh L sinh năm 1995, cháu Phạm Thị Yến Nh sinh năm 1998; Đều tại địa chỉ: Khu dân cư G, phường T, Tnh phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 18/01/2020, Phạm Văn Th đi bộ mang theo 01 dao nhọn dài 22cm (loại dao gọt hoa quả Thái Lan) và 01 con dao rựa dài 40cm sang nhà ông Phạm Đức T, sinh năm 1975 ở Khu dân cư G, phường T, Tnh phố C, tỉnh Hải Dương, mục đích để nói chuyện với ông T về việc tình cảm của Th với chị Phạm Thị Khánh L, sinh năm 1995 (con đẻ ông T). Nếu ông T không đồng ý cho Th yêu và cưới L thì Th sẽ dùng 02 con dao mang theo giết ông T. Th nghĩ việc chị L không đồng ý yêu, cưới Th là do bị ông T ngăn cản.

Khi đến, Th đi vào sân để gặp ông T. Thấy Th đến có cầm dao, ông T hỏi “mày cầm dao đến nhà tao làm gì” và lấy điện thoại giơ lên quay đồng thời nói sẽ báo công an. Bực tức vì việc ông T dọa nên Th cầm dao gọt hoa quả tay phải chạy đến đứng đối diện ông T đâm liên tiếp 02 nhát trúng vào bụng, ngực ông T. Quá trình dùng dao nhọn đâm ông T, Th bị lưỡi dao cứa vào ngón tay trỏ bên trái nên con dao bị rơi xuống sân. Bị Th đâm, ông T ôm bụng bỏ chạy vào trong bếp của gia đình. Th tiếp tục cầm dao rựa đuổi theo. Tại khu bếp, Th cầm dao rựa chém liên tiếp 02 nhát trúng đầu, gáy ông T nên ông T cầm ghế gỗ đỡ thì Th chém trúng vào ghế. Khi ông T nằm gục ở sàn bếp thì Th không chém nữa mà cầm dao rựa đi ra sân và nhặt con dao nhọn đã dùng đâm ông T trước đó rồi chạy bộ về nhà ở của mình. Hậu quả: Ông Phạm Đức T tử vong.

Khi về đến nhà, do sợ người nhà ông T đến tìm trả thù, Th khoá cửa nhà và vứt con dao nhọn đã sử dụng để đâm ông T ở bồn rửa bát trong bếp rồi lấy thêm 01 con dao mũi nhọn, cán bằng nhựa màu vàng dài 20cm và 01 con dao (dạng dao rựa dùng để băm chặt) cán và lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 31,5cm mang vào nhà tắm trong phòng ngủ tầng 2 với mục đích để cố thủ, không cho ai vào. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi được tổ công tác của Công an Tnh phố C cùng các lực lượng chức năng vận động, thuyết phục thì Th đã đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 01/KLGĐ ngày 20/01/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận về giám định tử thi ông Phạm Đức T như sau:

1. Về dấu hiệu qua giám định: 03 vết thương vùng đỉnh đầu trái, tổn thương xương và màng não; 01 vết thương ngực trái theo khoang liên sườn III, IV thông khoang ngực, tổn thương phổi vị trí tương ứng, chảy máu khoang ngực; vết thương bụng trái thông khoang bụng, thủng dạ dày, chảy máu khoang bụng; vết thương mặt ngoài khuỷu tay trái tổn thương cơ nông. Tất cả các vết thương trên đều có đặc điểm bờ mép sắc gọn.

2. Nguyên nhân chết: Mất máu cấp do đa vết thương (vết thương sọ não mở; vết thương thấu ngực trái, tổn thương phổi trái; vết thương thấu bụng, thủng dạ dày).

3. Các tổn thương, chiều hướng và cơ chế hình Tnh: 02 vết thương vùng đỉnh bên trái có chiều hướng dạng đồng trục chiều trước sau, chếch từ trái sang phải, sau ra trước làm đứt xương sọ và màng não tương ứng, thông khoang hộp sọ. Vết thương vùng sau đỉnh trái có hướng theo chiều ngang từ sau ra trước tạo vuông góc với 02 vết thương trên; đứt 1 phần xương sọ (sâu 0,1cm). Vết thương vùng ngực trái có hướng từ trái sang phải hơi chếch trên xuống dưới. Vết thương vùng bụng trái có hướng từ trước ra sau, trái sang phải, chếch từ trên xuống dưới. Vết thương vùng khuỷu tay trái có hướng từ sau ra trước, từ trái sang phải, không tổn thương xương. Các vết thương vùng đầu đều có cơ chế bị tác động bởi lực chém theo chiều hướng vết thương là phù hợp. Các vết thương vùng ngực, vùng bụng, vùng khuỷu tay đều có cơ chế bị tác động bởi lực đâm theo hướng vết thương là phù hợp. Vật gây thương cho các vết thương vùng đầu là vật sắc tương đối to và nặng, các vết thương còn lại là do vật sắc nhọn có bản nhỏ gây lên là phù hợp.

4. Tổn thương trên nạn nhân nếu được cấp cứu kịp thời trong điều kiện hiện tại thì cũng không thể cứu được.

Tại Bản kết luận giám định số 554/C09-TT3 ngày 28/02/2020, Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Trên các con dao ghi số 1 (con dao mũi nhọn cán bằng gỗ, dao có tổng chiều dài 22cm; lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 11,5cm chỗ rộng nhất 1,8cm, lưỡi dao cong vênh); số 3 (con dao mũi nhọn, cán bằng nhựa màu vàng, dao có tổng chiều dài 20cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 9,5cm, chỗ rộng nhất 2,5cm); số 4 (con dao dạng dao chặt, cán và lưỡi bằng kim loại màu trắng, tổng chiều dài dao là 31,5cm, lưỡi dài 20cm, chỗ rộng nhất là 10,5cm) và trên chiếc áo len gửi giám định có bám dính máu người và đều là máu của Phạm Văn Th. Trên con dao ghi số 2 (con dao dạng dao chặt, cán và lưỡi bằng kim loại màu đen, dao có tổng chiều dài 40cm, lưỡi dao rộng nhất 5cm) và trên chiếc quần bò màu xanh gửi giám định có bám dính máu của ông Phạm Đức T và Phạm Văn Th.

Tại Bản kết luận giám định số 1566/C09-P6 ngày 10/4/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an đối với hình ảnh lưu trong điện thoại nhãn hiệu Samsung J2 màu đồng xác định: Không tìm thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung các tệp ảnh gửi giám định; 02 tệp ảnh gửi giám định đều được khởi tạo vào 15 giờ 41 phút ngày 18 tháng 01 năm 2020 (đây là thời gian của hệ thống và có thể thay đổi được).

Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 209/KLGĐ ngày 23/6/2020 của Viện pháp y tâm thần Trung ương đối với Phạm Văn Th xác định: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định bị can Phạm Văn Th bị bệnh các rối loạn khí sắc (cảm xúc) thực tổn. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992, bệnh có mã số F06.3. Tại các thời điểm trên bị can đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Tại Kết luận định giá tài sản số 1854/KL-HĐĐG ngày 24/6/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Hải Dương xác định: Giá trị thiệt hại của 01 chiếc ghế tựa bằng gỗ bị hư hỏng là 160.000 đồng.

Quá trình điều tra, Phạm Văn Th đã Tnh khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, các kết luận giám định pháp y, kết luận giám định phù hợp với nội dung, diễn biến của vụ án, lời khai của đại diện gia đình bị hại, các nhân chứng và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Tại Cáo trạng số 26/CT-VKS-P2 ngày 13/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương đã truy tố Phạm Văn Th về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2020/HS-ST ngày 17/9/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương quyết định:

1. Về áp dụng pháp luật: Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm q, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 39 Bộ luật Hình sự.

2. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Th phạm tội “Giết người”.

3. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn Th tù chung thân, thời hạn tính từ ngày tạm giam 18/01/2020.

4. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 591, Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Phạm Văn Th bồi thường cho gia đình bị hại các khoản bồi thường sau: Chi phí mai táng là 37.500.000 đồng; Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho bà Mạc Thị N, chị Phạm Thị T, cháu Phạm Thị Khánh L, cháu Phạm Thị Yến N, tổng là 149.000.000 đồng, mỗi người được hưởng là 37.250.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo phải bồi thường cho gia đình bị hại (do bà Phạm Thị T đại diện nhận) là 186.500.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành các khoản tiền trên thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/9/2020, bị cáo Phạm Văn Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Văn Th giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; thừa nhận hành vi phạm tội của mình là đã dùng dao đâm, chém ông T nhiều nhát khiến ông T tử vong như bản án sơ thẩm đã mô tả; xác định bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Giết người” là đúng pháp luật. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vì Kết luận điều tra của cơ quan công an xác định không đúng sự thật khách quan của vụ án, việc bị cáo phạm tội một phần do bị mắc bệnh tâm thần, nhưng phía bị hại có lỗi khi lừa đảo tiền của mẹ con bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích về nội dung vụ án, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo và tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra đã đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Th; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Đoàn Văn H trình bày: Đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử cần lưu ý bị cáo phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Sau khi nghe ý kiến tranh luận của bị cáo và Luật sư, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đã trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Th trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai nhân tội của bị cáo Phạm Văn Th tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, các kết luận giám định; phù hợp với nội dung, diễn biến của vụ án, lời khai của đại diện gia đình bị hại, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 15 giờ 40 phút ngày 18/01/2020, tại nhà ở của ông Phạm Đức T thuộc khu dân cư G, phường T, Tnh phố C, tỉnh Hải Dương, Phạm Văn Th đã thực hiện hành vi sử dụng 01 con dao nhọn loại dao gọt hoa quả (chiều dài 22cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 11,5cm, chỗ rộng nhất 1,8cm) và 01 con dao rựa màu đen (dạng dao chặt, cán và lưỡi bằng kim loại màu đen, dao có tổng chiều dài 40cm, lưỡi dao rộng nhất 5cm) để đâm, chém liên tiếp nhiều nhát vào bụng, ngực và vùng đầu ông T khiến ông T tử vong vì mất máu cấp do đa vết thương (vết thương sọ não mở; vết thương thấu ngực trái, tổn thương phổi trái; vết thương thấu bụng, thủng dạ dày).

Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần số 209/KLGĐ ngày 23/6/2020 của Viện pháp y tâm thần Trung ương xác định: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định bị cáo Phạm Văn Th bị bệnh các rối loạn khí sắc (cảm xúc) thực tổn. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F06.3. Tại các thời điểm trên bị cáo đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Như vậy, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hậu quả do hành vi của mình gây nên. Giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn nhưng chỉ vì ý thức thù tức của cá nhân mà bị cáo đã tước đoạt tính mạng của bị hại là thể hiện tính côn đồ, hung hãn, coi thường pháp luật. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, thực hiện quyết liệt, mong muốn hậu quả xảy ra. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo Phạm Văn Th về tội “Giết người” với tình tiết định khung có tính chất côn đồ theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo Phạm Văn Th thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, không những trực tiếp xâm phạm khách thể được pháp luật bảo vệ là tính mạng, quyền được sống của nạn nhân, mà còn gây đau thương, mất mát không thể bù đắp cho gia đình nạn nhân, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân nên đòi hỏi cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo và đảm bảo tác dụng tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung.

Mặc dù về nhân thân thì bị cáo Th không có tiền án, tiền sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình điều tra và tại các phiên tòa, đã Tnh khẩn khai báo; tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi; sau khi phạm tội đã ra đầu thú, nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm q, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, với tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng nên khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định xử phạt bị cáo Th với mức hình phạt tù chung thân là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Tại phiên tòa phúc thẩm, không có thêm tình tiết mới. Vì vậy, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Văn Th.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Phạm Văn Th phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Th. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2020/HS-ST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương về tội danh và hình phạt đối với của bị cáo Phạm Văn Th như sau:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Th phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm q, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn Th tù chung thân. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2020.

2. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người sô 18/2021/HS-PT

Số hiệu:18/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về