Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 57/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 57/2021/HS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo: Trần Văn P, sinh năm 1996; HKTT: Thôn X, xã Q, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh;tôn giáo: Không; giới tính: N; bố đẻ: Trần Văn Trí, sinh năm 1972 và mẹ đẻ: Trần Thị L, sinh năm 1973; Gia đình có 2 chị em, bị cáo là con thứ 2; Vợ: Lò Thị T, sinh năm 1997 và 01 con, sinh năm 2019; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; Bị cáo hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Cháu Sùng Thị D, sinh ngày 07/5/2005 – vắng mặt;

Người Đ diện hợp pháp của người bị hại: Ông Sùng A Cha, sinh năm 1981 và bà Vàng Thị C, sinh năm 1983 – vắng mặt;

HKTT: Mào Phô, Giang Ma, Tam Đường, Lai Châu;

Ông Sùng A C và bà Vàng Thị C ủy quyền cho anh Giàng A S làm người Đ diện – vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại: Ông Nguyễn Văn H – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Ninh – có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 18/11/2020, sau khi ăn cơm, uống rượu xong, Trần Văn P, Trần Văn Đ, sinh năm 1991 ở thôn X, xã Q, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh và Mai Trọng N, sinh năm 1987 ở thôn C, xã Đ, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đến quán karaoke Lions của chị Vũ Thị H ở thôn Nghiêm Thôn, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ để hát karaoke. P, Đ và N được bố trí hát tại phòng hát số 1 ở tầng 2 của quán. Sau đó, P bảo chị H cho 3 nhân viên nữ lên phòng hát rót bia và bấm bài, chị H đồng ý. Chị H gọi điện bảo Nguyễn Đức L, sinh năm 1993 ở thôn L, xã P, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh là người quản lý nhân viên hát phục vụ tại các quán karaoke cử 03 nhân viên nữ đến quán karaoke của chị để phục vụ khách. Sau đó L đã đưa Sùng Thị D, Lò Thị P1, sinh năm 1998 ở bản Xa, xã Sập Xa, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La và Giàng Thị T, sinh năm 2002 ở xã Đồng Tiến, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang là nhân viên của L đến quán chị H phục vụ khách. Chị H đưa D, P và Tâm lên phòng hát số 1 để phục vụ. Khi vào phòng, D ngồi gần với Trần Văn P, P1 ngồi gần với Đ và T ngồi gần với N. Trong quá trình hát P, Đ, N tiếp tục sử dụng bia. Lúc này, P nảy sinh ham muốn quan hệ tình dục nên có nói với D: “Anh em mình vào nhà vệ sinh vui vẻ tý” (ý là quan hệ tình dục), D không nói gì và đi ra khỏi phòng hát ngồi tại ghế sô pha trước cửa phòng hát số 1. Thấy D đi ra ngoài, P cũng đi ra ngồi tại ghế sô pha trước cửa phòng nói chuyện với D. Quá trình nói chuyện, P tiếp tục rủ D vào nhà vệ sinh vui vẻ tý (ý là quan hệ tình dục), D đồng ý và đi vào nhà vệ sinh cạnh đó. Thấy vậy P đi vào sau và đóng cửa nhà vệ sinh lại.Tại đây, D để tay vào bệ rửa mặt, quay lưng hướng về phía P, P dùng tay vén váy của D lên đến bụng rồi tụt quần lót của D xuống đến đầu gối. Sau đó, P tự cởi quần của P và dùng tay cầm dương vật cho vào trong âm hộ của D từ phía sau để quan hệ tình dục với D khoảng 3 phút thì P rút dương vật ra khỏi âm hộ của D. D tiếp tục đi vào phía bên trong nhà vệ sinh cách đó khoảng một mét, để tay lên máy giặt, quay lưng về phía P. P lấy hai tay ôm eo D, D dùng tay phải cầm vào dương vật của P cho vào trong âm hộ của D để tiếp tục quan hệ tình dục khoảng 3 đến 4 phút thì rút dương vật ra khỏi âm hộ của D và xuất tinh lên chân của D rồi lấy khăn mặt lau sạch. Sau khi quan hệ tình dục xong, D không phục vụ hát nữa mà đi về phòng trọ còn P tiếp tục vào phòng hát. Sau đó, P tiếp tục gọi một nữ nhân viên khác thì có Đặng Thị Thu H, sinh năm 2001 lên thay D rót bia và bấm bài. Cả nhóm hát đến khoảng 20 giờ cùng ngày thì không hát nữa và đi về nhà. Đến ngày 19/11/2020, P biết D chưa đủ 16 tuổi nên đã đến Công an huyện Quế Võ đầu thú và khai nhận hành vi như trên.

Ngày 18, 19/11/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã thu giữ 01 quần lót của cháu Sùng Thị D, thu giữ mẫu tóc của cháu Sùng Thị D và Trần Văn P để phục vụ công tác giám định theo quy định.

Ngày 19/11/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã trưng cầu giám định Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định các dấu vết tổn thương trên cơ thể và giám định bộ phận sinh dục của cháu Sùng Thị D; Giám định mẫu ADN trong mẫu dịch âm đạo, mẫu quần lót thu của Sùng Thị D với mẫu tóc thu của Sùng Thị D và Trần Văn P.

Tại bản kết luận giám định pháp y tình dục số: 8370/C09-TT1 ngày 25/11/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:

“1. Tình trạng cơ quan sinh dục của cháu Sùng Thị D: Màng trinh rách cũ tại vị trí 3 giờ, 6 giờ và 9 giờ. Các bộ phận khác không có tổn thương;

2. Tại thời điểm giám định cháu Sùng Thị D không có thai.” Tại bản kết giám định số 8379/C09-TT3 ngày 15/12/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:

“ 1. Trên chiếc quần lót thu của Sùng Thị D và mẫu ghi dịch âm đạo thu của Sùng Thị D gửi giám định đều bám dính tinh trùng người; Trên chiếc quần lót ghi của Sùng Thị D bám dính tinh trùng của Trần Văn P; Không xác định được kiểu gen từ dấu vết tinh trùng người trong mẫu ghi dịch âm đạo thu của Sùng Thị D do AND bị lẫn, không phân tích được kiểu gen của từng người.” Trong quá trình điều tra, gia đình Sùng Thị D có cung cấp sổ hộ khẩu gia đình để xác định độ tuổi của Sùng Thị D. Trong sổ hộ khẩu thể hiện Sùng Thị D sinh ngày 07/5/2005 (tuy nhiên có dấu vết bị tẩy xóa). Ông Sùng A Cha (là bố cháu D) cho biết do gia đình sinh nhiều con và sinh tại nhà nên sau khi sinh được khoảng 4 đến 5 tháng mới đi khai sinh cho con nên không nhớ rõ Sùng Thị D sinh ngày tháng năm nào. Ngày 19/11/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã trưng cấu giám định độ tuổi của Sùng Thị D.

Tại bản kết luận giám định pháp y độ tuổi số: 8371/C09-TT1 ngày 30/11/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: “Căn cứ mực độ phát triển thể chất, sự phát triển và cốt hóa của các xương tay, chân và khung chậu, mức độ hàn các đầu xương vào thân xương của các xương dài, khám chuyên khoa và các xét nghiệm, xác định độ tuổi của Sùng Thị D tại thời điểm giám định (ngày 19/11/2020) là 14 năm đến 14 năm 6 tháng”.

Sau khi xảy ra sự việc, gia đình Trần Văn P đã bồi thường cho gia đình cháu Sùng Thị D (do anh Sùng A Cha là bố đẻ của D làm Đ diện) số tiền 24 triệu đồng. Gia đình cháu D đã nhận số tiền trên và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn P.

Bản cáo trạng số: 28/CT-VKS ngày 29/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Trần Văn P phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, bị cáo có quan hệ tình dục với cháu Sùng Thị D nhưng bị cáo không biết cháu D còn ít tuổi và D cũng không nói cho bị cáo biết D bao nhiêu tuổi. Đến khi biết cháu D chưa đủ 16 tuổi, bị cáo đã ra đầu thú. Cáo trạng của VKSND huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, Đ diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Trần Văn P phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Áp dụng khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt: Bị cáo Trần Văn P từ 12 tháng đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Đ diện VKS còn đề nghị về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trình bày quan điểm cho rằng, cáo trạng của VKSND huyện Quế Võ đã truy tố bị cáo là đúng người đúng tội. Đề nghị HĐXX xử lý bị cáo mức hình phạt phù hợp để giáo dục, trừng trị và răn đe đối với loại tội phạm xâm phạm đến trẻ em.

Bị cáo Trần Văn P không có ý kiến tranh luận với vị Đ diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo, lời khai của người bị hại trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bản Cáo trạng, Kết luận điều tra, Kết luận giám định pháp y về tình dục và Kết luận giám định pháp y về độ tuổi. Từ đó có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ ngày 18/11/2020, sau khi được sự đồng ý của cháu Sùng Thị D (là nhân viên hát phục vụ tại quán), bị cáo P đã có hành vi quan hệ tình dục với cháu D tại khu vực nhà vệ sinh phòng hát số 1 của quán Karaoke Lions ở thôn Nghiêm Thôn, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Vào thời điểm xảy ra vụ việc (ngày 19/11/2020) theo bản kết luận giám định pháp y độ tuổi số: 8371/C09-TT1 ngày 30/11/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an thì cháu D có độ tuổi là từ 14 năm đến 14 năm 6 tháng. Như vậy, hành vi của bị cáo P đã phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” được quy định tại khoản 1 Điều 145 BLHS như Cáo trạng của VKSND huyện Quế Võ đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến sự phát triển bình thường về tình dục đối với người dưới 16 tuổi. Làm mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang dao động và bất bình trong quần chúng nhân dân. Nên cần phải xử lý hình sự đối với bị cáo. Do tội phạm mà bị cáo thực hiện là tội xâm phạm đến trẻ từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nên cần phải có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục riêng và góp phần răn đe, phòng ngừa chung [4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngay sau khi biết cháu Sùng Thị D chưa đủ 16 tuổi, bị cáo đã ra đầu thú. Bị cáo cùng gia đình đã chủ động bồi thường cho người bị hại và gia đình người bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi của mình. Ngoài ra, khi bị cáo đề nghị được quan hệ tình dục, người bị hại đã không cho bị cáo biết tuổi của mình, chủ động cùng với bị cáo thực hiện quan hệ tình dục nên xác định người bị hại cũng có một phần lỗi. Như vậy, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử thấy xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ để thể hiện tính nghiêm minh cũng như sự khoan hồng của pháp luật.

[5]Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo P và gia đình đã bồi thường cho cháu Sùng Thị D (do anh Sùng A Cha là bố đẻ cháu làm người Đ diện) số tiền 24.000.000đ. Người bị hại và Đ diện của người bị hại đã nhận đủ số tiền và xác định không yêu cầu gì trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét. [6] Đối với anh Mai Trọng N, anh Trần Văn Đ (là người đi cùng với P hát karaoke tại quán karaoke Lions), chị Vũ Thị H là chủ quán karaoke Lions và chị Giàng Thị T, Lò Thị P1, chị Đặng Thị Thu H là nhân viên, đều không biết việc bị cáo P và cháu D quan hệ tình dục, cũng không biết việc cháu D chưa đủ 16 tuổi nên cơ qun điều tra không xử lý là phù hợp quy định của pháp luật. Đối với anh Nguyễn Đức L không biết chị D dưới 16 và thực hiện hành vi quan hệ tình dục, sau khi biết D chưa đủ 16 tuổi và có quan hệ tình dục với P thì đã đưa cháu D đến công an huyện Quế Võ để trình báo nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ không xử lý là phù hợp. Đối với các chị Giàng Thị T, Lò Thị P1 và Đặng Thị Thu H không biết P quan hệ tình dục với D nên Cơ quan CSĐT không xem xét xử lý là có căn cứ.

[7] Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phòng bì thư có dấu của Viện KTHS – Bộ công an và chữ ký cùa giám định viên do bị hại, bị cáo không yêu cầu lấy lại và không còn giá trị sử dụng.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn P phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 47, Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử phạt:

- Bị cáo Trần Văn P 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phòng bì thư có dấu của Viện KTHS – Bộ công an và chữ ký của giám định viên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/4/2021 tại Chi cục THADS huyện Quế Võ.

5. Về án phí: Bị cáo Trần Văn P phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo, người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, Đ diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 57/2021/HS-ST

Số hiệu:57/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về