TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 32/2021/HS-ST NGÀY 19/05/2021 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 19 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 28/2021/HSST ngày 06 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2021/HSST-QĐ ngày 27 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
1. Bị cáo: Họ và tên: Trương Văn L - sinh ngày: 09/9/2001; tại tỉnh Bạc Liêu.
-Nơi ĐKTT và nơi cư trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha tên: Trương Văn T, sinh năm: 1973; Mẹ tên Phan Thị Kim T, sinh năm: 1973, cả hai cùng nơi cư trú với bị cáo; Anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là con lớn trong gia đình.
-Tiền án, tiền sự: Không.
-Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cái Bè.
(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)
2/ Người bị hại:
Họ và tên: Lê Thị Thúy K, sinh ngày: 31/10/2004 (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Tiền Giang.
- Đại diện hợp pháp và giám hộ của bị hại:
Ông Lê Văn T, sinh năm: 1980. (là cha ruột Lê Thị Thúy K) (có mặt). Địa chỉ: Ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Tiền Giang.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Lê Thị Thúy K:
Ông Nguyễn Văn T - Luật sư, Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang (xin vắng mặt).
3/Người có quyền và nghỉa vụ liên quan:
Họ và tên: Trương Văn T, sinh năm: 1973. (là cha ruột bị cáo Trương Văn L). Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trương Văn L và Lê Thị Thúy K, sinh ngày 09/9/2004 có quan hệ tình cảm nam nữ qua mạng xã hội. Đến ngày 11/7/2020 L đến xã M, huyện P để gặp K. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày L và K thuê phòng số 2, nhà nghỉ Mai Phương, có địa chỉ tại ấp An Thái, xã An Cư, huyện Cái Bè để nghỉ. Trong thời gian ở chung tại đây được sự đồng ý của K, L giao cấu với K 01 lần tại giường ngủ trong phòng trọ này. Sau đó cả hai L và K bàn bạc thống nhất trốn nhà đi đến tỉnh Bình Dương để sống với nhau như vợ chồng. Đến đêm 11/7/2020 cả hai đi khỏi nhà nghỉ Mai Phương đến một nhà nghỉ khác trên quốc lộ 1A, nhưng không rõ tên và địa chỉ cụ thể được sự đồng ý của K; L và K giao cấu với nhau một lần nữa. Đến sáng ngày 12/7/2020 L và K đến khách sạn QD thuộc ấp H, xã L, thị xã F tiếp tục thuê phòng số 4 để nghỉ chờ xe đi Bình Dương. Tại đây được sự đồng ý của K, L giao cấu với K một lần nữa. Sau đó cả 2 đi Bình Dương.
Khi đến Bình Dương cả hai thuê phòng trọ không số ở khu phố V, phường X, thị xã Z, tỉnh Bình Dương chung sống như vợ chồng từ ngày 12/7/2020 đến ngày 29/7/2020. Trong thời gian này được sự đồng ý của K, L giao cấu với K khoảng 06 lần. Trong thời gian này gia đình Lê Thị Thúy K trình báo sự việc với Công an. Đến ngày 30/7/2020 Cơ quan Công an làm việc với Trương Văn L, L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên, nên L bị tạm giữ cho đến nay.
Tại bản kết luận giám định pháp Y về tình dục số 45/2020/TD, ngày 30/7/2020 của Trung tâm Pháp Y, thuộc Sở Y tế tỉnh Tiền Giang; Kết luận: Tại thời điểm giám định Lê Thị Thúy K ngày 30/7/2020:
-Màng trinh: Hình răng cưa, dãn rộng có nhiều vết rách cũ vị trí 7 giờ, 9 giờ, 11 giờ. Soi tươi tìm xác tinh trùng: Tìm không thấy xác tinh trùng.
Quá trình điều tra , bị cáo L có thái độ thành khẩn khái báo, ăn năn hối cải, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập được.
-Đồ vật có liên quan được thu giữ trong phòng do L thuê ở tại khu phố V, phường X, thị xã Z, tỉnh Bình Dương gồm: 01 giấy chứng minh nhân dân tên Lê Thị Thúy K; 01 quần thun nữ màu đen; 01 áo thun nữ màu đen; 01 áo khoát nữ màu đen, 01 túi xách nữ màu xám tro, số đồ vật trên của Lê Thị Thúy K.Thu giữ của Trương Văn L 01 điện thoại di động hiệu VSMART Star3 màu đỏ.
-Cơ quan điều tra đã trao trả cho Lê Thị Thúy K 01 giấy chứng minh nhân dân: Số tang vật còn lại hiện còn tạm giữ.
-Về trách nhiệm dân sự: Ông Lê Văn T yêu cầu bị cáo L bồi thường tổn thất tinh thần 45.000.000đ; Bị cáo L đồng ý bồi thường, ông Trương Văn T là cha ruột bị cáo L bồi thường cho gia đình bị hại K 20.000.000đ. Số còn lại bị cáo chưa bồi thường.
Bản cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 02/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang truy tố bị cáo Trương Văn L về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa :
1/ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo L. Sau khi phân tích và đánh giá mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố: Bị cáo Trương Văn L, phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
- Áp dụng: Điểm a khoản 2 Điều 145 và Điểm b và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Trương Văn L từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù.
- Về phần trách nhiệm dân sự: Đề nghị ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường tiếp cho người bị hại 25.000.000đ và xử lý vật chứng.
2/ Luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị hại Lê Thị Thúy K: Tại phiên tòa hôm nay có đơn xin vắng mặt nhưng có bài phát biểu bảo vệ quyền lợi cho người bị hại và đưa ra lý lẽ: Tại thời điểm giao cấu người bị hại chưa đủ 16 tuổi còn hạn chế về nhận thức cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ em gái. Việc truy tố của Viện kiểm sát là đúng người đúng tội. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội giao cấu với người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và áp dụng mức hình phạt hợp lý để có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung cũng như đề nghị bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền còn lại theo yêu cầu của người bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về nội dung vụ án.
Tại phiên Tòa hôm nay, sau khi nghe Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa công bố Bản cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi giao cấu với người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Bị cáo Trương Văn L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như bản Cáo Trạng đã nêu là do có quan hệ tình cảm nam nữ với nhau. Vào khoảng 11 giờ, ngày 11/7/2020 tại phòng số 2, nhà nghỉ Phương Mai thuộc ấp An Thái, xã An Cư, huyện Cái Bè, được sự đồng ý của K bị cáo đã giao cấu với K 01 lần. Đêm 11/7/2020 tại một nhà nghỉ trên quốc lộ 1 A bị cáo L giao cấu với K 01 lần. Đến sáng ngày 12/7/2020 tại phòng số 04 khách sạn Huỳnh Duy 2, thuộc ấp H, xã L, thị xã F, tỉnh Tiền Giang, L giao cấu với K 01 lần nữa. Và từ ngày 12 đến 29 tháng 7 năm 2020 tại nhà trọ không số thuộc khu phố V, phường X, thị xã Z, tỉnh Bình Dương bị cáo L và K giao cấu khoảng 6 lần nữa. Tất cả các lần giao cấu đều được người bị hại K đồng ý. Qua giấy khai sinh và các giấy tờ nhân thân, hộ tịch của Lê Thị Thúy K thì tại thời điểm giao cấu ngày 11/7/2020 Lê Thị Thúy K chỉ mới 15 tuổi 8 tháng 10 ngày. Đồng thời tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trương Văn L cũng xác định là bị cáo có cầm giấy chứng minh nhân dân của K đi thuê phòng trọ, có xem và biết được tại thời điểm giao cấu Lê Thị Thúy K chưa đủ 16 tuổi. Như vậy hành vi của bị cáo L giao cấu với Lê Thị Thúy K vào thời điểm này là giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại Lê Thị Thúy K và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như kết luận giám định pháp y về tình dục trong vụ án này.
Ngoài ra trong vụ án này còn có chủ nhà nghỉ MP, Chủ khách sạn QD và Chủ nhà trọ không số tại khu phố V, phường X, thị xã Z, tỉnh Bình Dương đã có hành vi cho bị cáo L và K thuê phòng trọ, nhưng những người này không biết L thuê phòng trọ là để thực hiện hành vi phạm tội là giao cấu với người chưa đủ 16 tuổi; nên Cơ quan điều tra Công an huyện Cái Bè không xem xét xử lý những người này theo qui định là có căn cứ, đúng qui định pháp luật.
Như vậy tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS, ngày 02/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè truy tố bị cáo Trương Văn L phạm tội: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo qui định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng qui định pháp luật.
[2] Xét tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo cũng như ý kiến của kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác.
Bị cáo Trương Văn L là người đã thành niên có đủ năng lực nhận thức, đã thực hiện hành vi giao cấu với Lê Thị Thúy K là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, mặc dù giữa bị cáo và bị hại có mối quan hệ tình cảm yêu thương nhau. Tuy nhiên ở độ tuổi này Lê Thị Thúy K phát triển chưa hoàn chỉnh về mọi mặt, nhận thức pháp luật có phần còn hạn chế, việc thực hiện hành vi giao cấu sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của người bị hại được pháp luật bảo vệ. Mặt khác bị cáo L cũng biết được tại thời điểm giao cấu Lê Thị Thúy K chưa đủ 16 tuổi, cho thấy bị cáo đã nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật. Cho thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, pháp luật qui định là tội phạm. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của bị cáo là có căn cứ và đúng qui định pháp luật. Mặt khác vì ham muốn dục vọng của bản thân mà bị cáo đã thực hiện hành vi giao cấu với bị hại 3 lần vào ngày 11 và 12 tháng 7 năm 2020, sau đó từ ngày 12 đến ngày 29 tháng 7 năm 2020 bị cáo tiếp tục thuê phòng trọ và giao cấu với bị hại khoảng 6 lần nữa, như vậy bị cáo đã giao cấu với bị hại khoảng 9 lần trong thời gian khoảng 20 ngày. Đây là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là phạm tội nhiều lần được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự.
Hành vi của bị cáo Trương Văn L là xem thường pháp luật, gây xôn xao dư luận và bất bình trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình trật tự trị an tại nơi xảy ra vụ án. Ngoài ra còn xâm phạm đến thân thể, nhân phẩm, danh dự của bị hại một cách trái pháp luật. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.
-Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình: Bị cáo L không có tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.
-Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đồng thời bị cáo cũng đồng ý số tiền bồi thường mà phía bị hại đưa ra. Có tác động gia đình là cha ruột bị cáo bồi thường trước cho phía bị hại K là 20.000.000đ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được qui định tại điểm b và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về vật chứng vụ án gồm: 01 quần thu nữ màu đên; 01 áo thu nữ màu đen;
01 áo khoát nữ màu đen, 01 túi xác nữ màu xám tro. Số đồ vật trên của Lê Thị Thúy K.Thu giữ của Trương Văn L 01 điện thoại di động hiệu VSMART Star3 màu đỏ. Nhận thấy các vật chứng này là của bị cáo L và bị hại K không liên quan hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần trao trả lại cho bị cáo L và bị hại K là có căn cứ.
-Về trách nhiệm dân sự:Người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường các tổn thất về tinh thần là 45.000.000đ. Bị cáo đồng ý và đã bồi thường 20.000.000đ. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo cũng đồng ý tiếp tục bồi thường phần còn lại là 25.000.000đ nên Hội đồng xét xử ghi nhận là phù hợp với qui định tại Điều 584, 585, 586, 588, 590 và 592 Bộ luật dân sự.
-Tại phiên Tòa hôm nay kiểm sát viêc thực hành công tố có đưa ra chứng cứ và lý lẽ đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trương Văn Luận phạm tội “ Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo qui định tại điểm a, khoản 2, Điều 145 Bộ luật hình sự. Cũng như đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ và bồi thường đề nghị xử phạt bị cáo L từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù, đề nghị ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo là tiếp tục bồi thường cho bị hại 25.000.000đ. Cũng như xử lý vật chứng.
Nhận thấy lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, phù hợp các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Riêng về hình phạt là cao so với hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi lẽ bị hại còn khoảng 3 tháng nữa là đủ 16 tuổi; giữa bị cáo và người bị hại phát sinh tình cảm nam nữ, người bị hại tự nguyện giao cấu và có ý định bỏ nhà đi theo bị cáo sống với nhau như vợ chồng.
-Tại phiên tòa hôm nay luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị hại chưa thành niên có đưa ra chứng cứ và lý lẽ bảo vệ cho người bị hại là có căn cứ nên được chấp nhận.
[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, kiểm sát viên và người bào chữa trong quá trình truy tố và xét xử.
Trong quá trình tiến hành tố tụng Cơ quan điều tra Công an huyện Cái Bè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đúng qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, để tiến hành điều tra, truy tố. Bị cáo, người bị hại, người giám hộ cho bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Do đó Hội đồng xét xử không đặc ra xem xét.
[4] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự, điểm b và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Trương Văn L phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
2. Về hình phạt: Áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lê Văn L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo là ngày 30/7/2020.
3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
-Trả cho Lê Thị Thúy K: 01 quần thun nữ màu đên; 01 áo thun nữ màu đen;
01 áo khoát nữ màu đen, 01 túi xách nữ màu xám tro Số đồ vật trên của Lê Thị Thúy K.
- Trả cho Trương Văn L 01 điện thoại di động hiệu VSMART Star3 màu đỏ. Các vật chứng này hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè đang quản lý.
Thời gian trao trả: Trả sau khi án cò hiệu thực pháp luật.
4. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 588, 590 và 592 Bộ luật dân sự.
Buộc bị cáo L bồi thường cho bị hại Lê Thị Thúy K 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
Thời gian bồi thường: Thực kiện việc bồi thường sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghỉa vụ bồi thường. Thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.250.000 đồng (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người giám hộ cho bị hại, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại chưa thành niên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa hôm nay được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết theo quy định pháp luật. Để Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm lại vụ án.
7. Quy định về thi hành án dân sự:
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy đinh tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 32/2021/HS-ST
Số hiệu: | 32/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về