Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 10/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 10/2021/HSST NGÀY 31/03/2021 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 31/3/2021, tại Trụ sở TAND huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên mở phiên tòa xét xử kín sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/2021/TLST - HS ngày 06/01/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST-HS NBNy 15/3/2021 đối với bị cáo:

PVĐ (tên gọi khác: Nhái); sinh năm 1996; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn MTT2, xã HP, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Làm nông; cha PTH, sinh năm 1969 và mẹ NTT, sinh năm 1955; bị cáo có 01 anh và 01 chị; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 05/11/2020. Có mặt.

Bị hại: NBN (chết)

Đại diện hợp pháp của bị hại: Vợ chồng NTH, sinh năm 1975, NTMH, sinh năm 1980; trú tại: Thôn MTT2, xã HP, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Phạm Hồng P, Luật sư văn phòng Luật sư Khẩn Vũ – Chi nhánh Phú Yên; địa chỉ: Khu phố 2, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Đại diện Ủy ban nhân dân xã HP, huyện Tây hòa, tỉnh Phú Yên. Có đơn xin vắng mặt.

2. Đại diện Trường trung học cơ sở Huỳnh Thúc Kháng, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên, địa chỉ: Thôn MTT1, xã HP, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Có đơn xin vắng mặt.

Người làm chứng:

1. NTKL, sinh năm 1970; trú tại: Thôn TM, xã HP2, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

2. NTT, sinh năm 1955; trú tại: Thôn MTT2, xã HP, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

3. LNT, sinh năm 1999; trú tại: Thôn PP, xã HĐ, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

4. LVB, sinh năm 1955, trú tại: Khu phố PT, thị trấn PT, huyện Tây Hòa, Phú Yên

5. NBN, sinh năm 1969; trú tại: Thôn TB, xã HP2, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

Bà NTT có mặt; những người còn lại vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

PVĐ và NBN, sinh ngày 10/12/2005 cùng trú thôn MTT2, xã HP, huyện Tây Hòa có quan hệ tình cảm từ tháng 02/2020. Khoảng 21 giờ ngày 01/10/2020, PVĐ điện thoại rủ NBN đi chơi, đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì đưa NBN về nhà PVĐ ngủ. Khoảng 02 giờ ngày 02/10/2020, bà NTT (mẹ PVĐ) không đồng ý nên bảo PVĐ chở NBN về nhà. Trên đường đi, PVĐ chở NBN đến nhà nghỉ Thảo Mơ ở khu phố Mỹ Lệ Đông, thị trấn PT. Tại đây, NBN tự cởi quần áo ra để cho PVĐ quan hệ tình dục (giao cấu) khoảng 05 phút sau thì xuất tinh trong âm đạo của NBN. Đến khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, PVĐ và NBN tiếp tục giao cấu lần thứ hai rồi trả phòng, nhưng còn nợ 40.000đ. Vì không còn tiền, nên NBN bán đôi hoa tai của NBN được 512.000đ rồi cùng PVĐ tiếp tục đi chơi. Khoảng 13 giờ cùng ngày, PVĐ và NBN quay lại nhà nghỉ Thảo Mơ trả nợ 40.000đ rồi PVĐ tiếp tục thuê phòng số 206, PVĐ và NBN tiếp tục giao cấu rồi trả phòng. Khoảng 23 giờ cùng ngày, PVĐ chở NBN đến nhà nghỉ Nam Hiền ở thôn Lương Phước, xã HP2 thuê phòng 102 đến sáng ngày 03/10/2020, PVĐ có hai lần giao cấu với NBN.

Ngoài ra, từ tháng 5/2020 PVĐ đã có bốn lần giao cấu với NBN, cụ thể: Lần thứ nhất, khoảng giữa tháng 5/2020, PVĐ giao cấu với NBN tại bụi tre đối diện Công ty may An Phát, thuộc thôn MTT2, xã HP (lúc này NBN 14 tuổi 5 tháng). Lần thứ hai, cách lần thứ nhất khoảng 01 tuần, PVĐ giao cấu với NBN tại khu vực trồng hoa trước cổng Công ty may An Phát thuộc thôn MTT2, xã HP. Lần thứ ba, cách lần thứ hai khoảng 02 tháng, PVĐ giao cấu với NBN tại Cầu Đúc thuộc thôn MTT2, xã HP. Lần thứ tư cách lần thứ 03 khoảng 02 tuần, PVĐ giao cấu với NBN cũng tại Cầu Đúc.

Ngày 14/10/2020 NBN bị chết do tai nạn giao thông.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 291/TD ngày 16/10/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Trên thân thể của NBN không phát hiện dấu vết thương tích thương tổn, bộ phận sinh dục không có vết xây xát, màng trinh có vết rách cũ hướng 06 giờ. Tại thời điểm giám định NBN không có thai.

Vật chứng vụ án: Không.

Về dân sự: Gia đình bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Cáo trạng số 05/CT- VKSTH ngày 06/01/2021 của VKSND huyện Tây Hòa truy tố bị cáo PVĐ về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa: Bị cáo PVĐ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của VKSND huyện Tây Hoà truy tố.

Đại diện VKSND huyện Tây Hòa: Giữ nguyên cáo trạng, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo PVĐ phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Áp dụng điểm a khoản 2, 4 Điều 145; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt: bị cáo PVĐ mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam.

Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về dân sự: Đại diện hợp pháp bị hại không yêu cầu nên không xét.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Đại diện hợp pháp bị hại và Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đại diện hợp pháp bị hại: Thống nhất về tội danh và điều khoản của Điều luật như Cáo trạng đã truy tố.

Về hình phạt: Đề nghị HĐXX xử bị cáo theo quy định pháp luật; về dân sự: Không yêu cầu.

Bị cáo nói lời sau cùng: Nhận tội, biết hành vi phạm tội của bị cáo là quá sai; xin HĐXX xét giảm, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng Hình sự 2015. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo PVĐ tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa hôm nay đều phù hợp với nhau; phù hợp với các tài liệu là chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng hơn 02 giờ đến sáng ngày 02/10/2020 và khoảng 13 giờ cùng tại nhà nghỉ Thảo Mơ thuộc khu phố MLĐ, thị trấn PT; khoảng hơn 23 giờ ngày 02/10/2020 đến sáng 03/10/2020 tại nhà nghỉ Nam Hiền thuộc thôn LP, xã HP2; khoảng giữa tháng 5 đến tháng 7/2020 tại bụi tre đối diện Công ty may An Phát, tại khu vực trồng hoa trước cổng Công ty may An Phát và tại Cầu Đúc thuộc thôn MTT2, xã HP, huyện Tây Hòa, bị cáo PVĐ có hành vi nhiều lần (hai lần trở lên) giao cấu với bị hại NBN, sinh ngày 10/12/2005; các lần giao cấu, bị hại trên 13 nhưng chưa đủ 16 tuổi, nên hành vi nêu trên của bị cáo PVĐ đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 của BLHS như Cáo trạng của VKSND huyện Tây Hòa truy tố là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Bị cáo PVĐ là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe, nhân phẩm và sự phát triển bình thường của bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội và tình hình trật tự trị an ở địa phương, nhất là tội phạm về tình dục đối với trẻ em; số lần bị cáo thực hiện hành vi giao cấu nhiều và diễn ra trong thời gian dài... nên cần phải xét xử bị cáo nghiêm minh trước pháp luật, cần thiết cách ly từng bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt tương xứng.

Bị cáo không có công việc ổn định nên không phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về dân sự: Đại diện hợp pháp bị hại không yêu cầu, nên HĐXX không xét.

[4] Về xử lý vật chứng: Không có, nên HĐXX không xét.

[5] Về án phí: Bị cáo PVĐ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định;

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo PVĐ (tên gọi khác: Nhái) phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Áp dụng: Điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo PVĐ.

1. Xử phạt: Bị cáo PVĐ 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 05/11/2020.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS và Điều 12, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo PVĐ phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm;

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

635
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 10/2021/HSST

Số hiệu:10/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về