TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 83/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 28 tháng 9 năm 2021 tại Toà án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2021/HSST ngày 16 tháng 6 năm 2021, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2021/HSST- QĐ ngày 22/6/2021 đối với bị cáo:
ĐINH VĂN Q , tên gọi khác: Không; sinh năm 1997 tại Bình Phước; Nơi cư trú: Tổ 1, ấp 6, xã N , huyện C , tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Mường; tôn giáo: Không; con ông Phạm Anh T và bà Đinh Thị N ; vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: bị cáo chưa lần nào bị xử lý hành chính hoặc xét xử về hành vi vi phạm pháp luật; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Trần Thị Mỹ V, sinh ngày 24/5/2007; địa chỉ: Tổ 3, ấp 3, xã M, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Có mặt
Người đại diện hợp pháp của Trần Thị Mỹ V: Ông Trần Quốc D ; sinh năm 1966; bà Lê Thị D1, sinh năm 1969; địa chỉ: Tổ 3, ấp 3, xã M, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Có mặt
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Phan Thị V – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bình Phước. Xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đinh Văn Q và cháu Trần Thị Mỹ V, sinh ngày 24/5/2007, Nơi cư trú: tổ 3, ấp 3, xã M, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước có mối quan hệ tình cảm yêu thương với nhau. Q và V làm cùng công ty tại ấp 4, xã M, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
Khoảng 17 giờ ngày 26/11/2020, sau khi hết giờ làm Q điều khiển xe mô tô chở cháu V đi về nhà V tại tổ 3, ấp 3, xã M, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước rồi Q đi về nhà tại tổ 1, ấp 6, xã Nha Bích, huyện Chơn Thành. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng này, Trần Quốc H, sinh năm 1994 (là anh ruột của V) điện thoại rủ Q đến nhà ăn cơm cùng gia đình V. Tại nhà cháu V, Q ăn cơm và uống rượu với ông Trần Quốc D (là cha đẻ của cháu V). Sau đó, Q được bố, mẹ cháu V cho ngủ lại tại nhà, khi gia đình cháu V đóng cửa đi ngủ thì V và Q trải tấm nệm đặt ở phòng khách xuống ngủ chung. Khi nằm gần nhau Q và V ôm hôn nhau thì Q nảy sinh muốn quan hệ tình dục với cháu V, Q dùng tay cởi cúc và kéo quần của V xuống rồi dùng tay sờ âm hộ và dùng ngón đưa vào bên trong âm hộ để kích thích ham muốn tình dục. Khi Q thực hiện hành vi thì cháu V không có phản ứng gì và đồng ý để cho Q thực hiện. Tuy nhiên, do biết cháu V còn nhỏ (sinh tháng 5/2007) nên Q dừng lại, lấy tay ra và cả hai đi ngủ đến sáng hôm sau.
Khoảng 17 giờ ngày 27/11/2020, sau khi hết giờ làm Q điều khiển xe mô tô chở cháu V đi về nhà V thì được gia đình cháu V rủ Q ở lại ăn cơm và ngủ lại để sáng hôm sau đi làm đi làm thì Q đồng ý. Sau khi tắm rửa, sinh hoạt và ăn uống tại nhà cháu V, đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì Q và cả gia đình V đi ngủ, Q và V vào phòng ngủ của V ngủ chung. Khi nằm cùng Q và V ôm hôn, được một lúc Q nảy sinh ý định quan hệ tình dục với cháu V nên Q dùng tay cởi cúc quần đùi Jean của V đang mặc ra và dùng tay sờ mó âm đạo của V rồi đưa ngón tay vào bên trong âm đạo để kích thích ham muốn tính dục thì cháu V nằm ngửa trên giường và nằm im không có phản ứng gì. Sau đó, Q cởi quần cháu V ra và dùng lưỡi để kích thích ham muốn tình dục (liếm âm hộ). Q tự cởi quần Jean của mình đang mặc ra và đưa dương vật vào bên trong âm đạo của V để quan hệ tình dục. Quan hệ được khoảng 01 phút thì Q không quan hệ nữa do lo sợ bị phát hiện nên lấy dương vật ra và kéo quần lên và đi ra khỏi phòng ngủ vào phòng vệ sinh dùng tay kích thích dương vật của mình, thỏa mãn rồi cho xuất tinh trùng ra ngoài. Sau đó, Q ra phòng khách ngủ một mình, còn V thì ngủ một mình tại phòng ngủ.
Sáng ngày 28/11/2020, Q dùng xe mô tô chở V đi làm. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, Q chở V về nhà V để ăn cơm trưa và nghỉ ngơi. Khoảng 12 giờ, sau khi ăn cơm xong Q và V vào phòng ngủ để nghỉ trưa. Lúc này, V đang nằm bấm điện thoại, còn Q dùng tay cởi cúc quần đùi Jean V đang mặc ra, đưa tay phải vào trong sờ vào âm hộ của V và đưa ngón tay giữa vào bên trong âm đạo của V để kích thích ham muốn tình dục. Tuy nhiên, Q lo sợ bị phát hiện nên dừng lại, sau đó cả hai nằm ngủ đến khoảng 13 giờ cùng ngày thì Q chở V đi làm.
Đến ngày 01/12/2020, gia đình cháu V phát hiện hành vi phạm tội của Q nên đã làm đơn trình báo cho Công an.
* Kết luận giám định pháp y về tình dục số 351/2020/TD ngày 14/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Phước kết luận:
- Môi lớn, môi bé, âm hộ, âm đạo, tầng sinh môn, hậu môn không thấy dấu vết tổn thương.
- Màng trinh: Giãn, đường kính khoảng 1,5cm; có vết rách cũ sâu đến chân trinh ở vị trí 4 giờ; không bầm tím; không sung huyết.
- Hiện tại không có thai Vật chứng vụ án: Thu giữ của Trần Thị Mỹ V 01 quần dài màu đen, lưng rộng 33 cm, ống quần dài 61 cm; 01 quần đùi Jane màu đỏ, lưng rộng 32 cm, ống quần 30 cm; 01 áo thun màu vàng, ngắn tay, cổ tròn, phía trước Ngực có chữ fihing is noue going is coming và hình con cá bằng vải; 01 áo dây 03 lỗ có chấm bi nhiều màu sắc là quần, áo cháu V mặc tại thời điểm xảy ra vụ án. Tuy nhiên, những đồ vật trên không còn giá trị sử dụng nên cháu V từ chối nhận lại.
Thu giữ của Đinh Văn Q 01 quần tây màu xám, lưng rộng 37 cm, ống dài 84 cm và 01 áo sơ mi trắng dài tay, Size “L” là quần, áo Q mặc khi thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, những đồ vật trên không còn giá trị sử dụng nên Q từ chối nhận lại.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường số tiền 10.000.000 đồng cho Bị hại, nay bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
Bản cáo trạng số 70/Ctr-VKS ngày 09/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Đinh Văn Q về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo phạm tội lần đầu; Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 50, 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.
Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước đã truy tố, bị cáo đồng ý với luận tội của Viện kiểm sát và không có ý kiến gì khác.
Người bảo vệ quyền lợi cho bị hại: Tại Luận cứ bảo vệ đã trình bày: Thống nhất với cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Q từ 3 - 10 năm tù theo quy định tại điểm b k2 điều 145 BLHS vì bị cáo phạm tội khi bị hại chưa đủ 16 tuổi, là tuổi còn hết sức non nớt, yếu ớt, chưa có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn, dễ bị người khác lôi kéo, rủ rê, mua chuộc, khó có thể tự vệ được, nên cần được bảo vệ một cách đặc biệt nhằm bảo đảm sự phát triển bình thường, lành mạnh của các em mà cần phải trừng trị thật nghiêm khắc đối với hành vi xâm phạm tình dục đối với các em.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức hành vi của mình sai trái và rất hối hận. Bị cáo xin lỗi bị hại. Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Đinh Văn Q và Trần Thị Mỹ V làm chung công ty và có mối quan hệ tình cảm yêu thương nhau nên Q thường chở V về nhà tại tổ 3, ấp 3, xã M, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Vào các ngày 26, 27, 28 tháng 11 năm 2020 Q về nhà của V chơi và được ba mẹ V nói Q ở lại ăn cơm và ngủ lại. Trong các ngày này, Q đã 03 lần thực hiện hành vi dùng tay, dương vật của mình để quan hệ tình dục với Trần Thị Mỹ V. Tại thời điểm phạm tội bị hại Trần Thị Mỹ V mới 13 tuổi 06 tháng 02 ngày. Do đó, hành vi của bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Do bị cáo 03 lần thực hiện hành vi phạm tội nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung “ phạm tội hai lần trở lên”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân và làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bồi thường cho người bị hại. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu. Bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị hại xin bãi bại cho bị cáo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo rất nghiêm trọng nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội.
Đề nghị trong luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Gia đình bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về xử lý vật chứng:
Thu giữ của Trần Thị Mỹ V 01 quần dài màu đen, lưng rộng 33 cm, ống quần dài 61 cm; 01 quần đùi Jane màu đỏ, lưng rộng 32 cm, ống quần 30 cm; 01 áo thun màu vàng, ngắn tay, cổ tròn, phía trước Ngực có chữ fihing is noue going is coming và hình con cá bằng vải; 01 áo dây 03 lỗ có chấm bi nhiều màu sắc là quần, áo cháu V mặc tại thời điểm xảy ra vụ án. Tuy nhiên, những đồ vật trên không còn giá trị sử dụng nên cháu V từ chối nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.
Thu giữ của Đinh Văn Q 01 quần tây màu xám, lưng rộng 37 cm, ống dài 84 cm và 01 áo sơ mi trắng dài tay, Size “L” là quần, áo Q mặc khi thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, những đồ vật trên không còn giá trị sử dụng nên Q từ chối nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 145; điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 50; 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
1. Tuyên bố bị cáo Đinh Văn Q phạm tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
2. Xử phạt bị cáo Đinh Văn Q 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy: 01 quần dài màu đen, lưng rộng 33 cm, ống quần dài 61 cm; 01 quần đùi Jane màu đỏ, lưng rộng 32 cm, ống quần 30 cm; 01 áo thun màu vàng, ngắn tay, cổ tròn, phía trước Ngực có chữ fihing is noue going is coming và hình con cá bằng vải; 01 áo dây 03 lỗ có chấm bi nhiều màu sắc là quần, áo cháu V mặc tại thời điểm xảy ra vụ án; 01 quần tây màu xám, lưng rộng 37 cm, ống dài 84 cm và 01 áo sơ mi trắng dài tay, Size “L” là quần, áo Q mặc khi thực hiện hành vi phạm tội.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 83/2021/HS-ST
Số hiệu: | 83/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về