TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 07/2022/HS-PT NGÀY 18/03/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 18 tháng 03 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 86/2021/TLPT - HS ngày 14 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo Nguyễn Văn M; Nguyễn Văn H do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2021/HS-ST ngày 03 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Ninh Bình.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Văn M, sinh năm 1990 tại tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú thôn X, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con của Nguyễn Văn H (là bị cáo trong cùng vụ án) và bà Nguyễn Thị N; có vợ: Nguyễn Thị Đ và 02 con; tiền án: Không, tiền sự: Quyết định số 13/QĐ-XPHC ngày 6/6/2020 của Công an xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi ”Đánh nhau”. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 07/4/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (có mặt).
2. Nguyễn Văn H, sinh năm 1966 tại tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú thôn X, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp làm ruộng; trình độ văn hóa 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Đỗ Thị D (đều đã chết); có vợ: Nguyễn Thị N và 02 con; tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
- Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Văn M và Nguyễn Văn H theo yêu cầu: Ông Trương Đình T - Luật sư Công ty Luật Tràng An thuộc Đoàn luật sư tỉnh Ninh Bình (có mặt).
Ngoài ra trong vụ án còn có 04 bị cáo; 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nhưng được Tòa án triệu tập:
1. Phạm Văn T, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Thôn X, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình (có mặt).
2. Lê Văn L, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Thôn X, xã G, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (có mặt).
3. Bùi Ngọc V, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn M và Phạm Tuấn L có mâu thuẫn với nhau từ trước. Khoảng 14h50 phút ngày 19/02/2021, khi M đang ngồi uống nước chờ rửa xe máy tại quán rửa xe của anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1980, nơi cư trú thôn H, xã G, huyện G thì thấy Phạm Tuấn L đi bộ một mình ngang qua chỗ M. Khi nhìn thấy M, Phạm Tuấn L chửi tục và nói: “Mày nhìn đểu tao cái gì?” thì M chửi lại và nói: “Tao nhìn gì mày?”. Phạm Tuấn L tiếp tục nói: “Mày thích đánh nhau à”, M trả lời: “Tao thích đấy”. Lúc này Phạm Tuấn L đi bộ tiến lại gần định đánh M. Thấy vậy, M thò tay xuống gầm bàn uống nước lấy 01 chiếc điếu cày bằng ống tre tròn, dài 70 cm, đường kính 05 cm đứng lên và vụt liên tiếp 02 phát từ trên xuống dưới, từ phải qua trái về phía Phạm Tuấn L, Phạm Tuấn L giơ tay trái lên đỡ thì bị M vụt trúng cẳng tay trái 02 phát. Thấy xô xát, anh Nguyễn Văn Q chạy lại can ngăn và giằng lấy điếu cày trong tay M mang cất đi. Lúc này M điều khiển xe mô tô BKS: 36G1-04856 đi về nhà bạn là anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1989, nơi cư trú thôn X, xã G, huyện G.
Sau khi M bỏ chạy, Phạm Tuấn L đi bộ về nhà gặp em trai của Phạm Tuấn L là Phạm Văn T, nói với T: “Thằng M- H nó vừa đánh tao ở chỗ nhà ông Q”.
Nghe vậy, T nói: “để tao đi xuống nhà nó tìm nó nói chuyện” rồi một mình điều khiển xe mô tô BKS: 35B1-50765, sơn màu đen đi đến nhà của M thì gặp Nguyễn Văn H (là bố của M) đang ở nhà. T dừng xe lại trước cổng nhà H chửi tục và nói: “Sao thằng M lại đánh thằng L, nó thích đánh nhau à?”, “Bảo với thằng M ra đường nó sẽ chết”. H ở trong nhà cũng chửi lại T: “Thằng này bố láo, mày thích làm sao?”, T nói: “Bố con nhà mày thích làm sao, thích thì ra đê đánh nhau với tao”, H chửi lại: “Thằng này bố láo, táng chết bà mày bây giờ”. Sau đó, T điều khiển xe mô tô đi ra ngã tư đường thôn gần nhà Nguyễn Văn T, sinh năm 1973, nơi cư trú thôn X, xã G, huyện G rồi rẽ phải đi về hướng nhà Lê Văn L. Còn H sau đó đi bộ nhanh đuổi theo chửi T và nói: “Mày đứng lại”, T vừa đi vừa nói: “Ông giỏi ra đây”. Lúc này chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1993 (là con dâu H) cũng đi theo H để can ngăn. Khi đến ngã tư trước cửa quán sửa xe nhà anh Nguyễn Văn T, T dừng xe lại và tiếp tục chửi bới, thách thức H. Thấy vậy, H vừa đuổi theo vừa nhặt gạch, đá ven đường cầm ở tay để đe doạ T thì T điều khiển xe chạy về phía nhà Lê Văn L1 nên H không đuổi theo nữa mà cầm gạch đá trên tay đi bộ về nhà cất ở trên nắp bể nước trong nhà.
Khi chạy đến cổng nhà Lê Văn L1, T xuống xe máy và gọi: “L1 ơi cứu tao với”. Thấy T gọi, Lê Văn L1 cùng với Bùi Ngọc V đang ở trong nhà chạy ra cổng. T kể cho Lê Văn L1 và Việt nghe việc cãi chửi nhau với H và bị H cầm gạch đá đuổi theo. Khoảng 3 phút sau, H lại đi bộ từ nhà H ra phía ngã tư trước cửa quán sửa xe của anh Nguyễn Văn T thì nhìn thấy T, L1 và V đang đứng ở cạnh giếng trước cổng nhà L1 (cách vị trí H đứng khoảng 30m) nên H và T lại tiếp tục chửi bới, thách thức đánh nhau. T nói: “Mày thích gì, lại đây”, H nói:
“Mày có giỏi thì ra đây”. T tiếp tục vẫy tay thách thức H: “Gọi hết anh em, bố con chúng mày ra đây đánh nhau với tao”. Nghe vậy, do bức xúc nên H đi đến vị trí trước cửa nhà anh Phạm Văn Q, sinh năm 1980, nơi cư trú thôn X, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình (cách vị trí T, L1 và V đang đứng khoảng 20m) nhặt gạch đá ven đường ném về phía T, L1 và V 02 phát nhưng không trúng ai. Lúc này L1 nhìn thấy dưới đất gần trụ cổng nhà L1 có 03 con dao tự chế gồm: 02 con dao bài, 01 con dao quắm cán đều được hàn thêm 01 đoạn tuýp sắt, tổng chiều dài khoảng 1,2 mét nên L1 cầm 03 con dao tự chế lên để ở trên bờ tường rào nhà L1. Khi thấy H vừa ném hết gạch, đá ở trên tay, chưa kịp nhặt lên ném tiếp thì L1 vứt 02 con dao bài hàn tuýp sắt xuống đường, cầm 01 con dao quắm hàn tuýp sắt chạy về phía H. T cũng nhặt 01 con dao mà L vừa ném xuống đường chạy về phía H, V (không cầm theo đồ vật gì) cũng chạy lên cùng với T và L1. Thấy T, L1 và V đuổi đến, H cúi xuống nhặt 02 viên gạch ném về phía L1, T, V liên tiếp 02 lần rồi quay đầu bỏ chạy, lần đầu tiên không trúng ai, lần thứ hai 01 viên gạch trúng vào đầu của T làm T bị rách da chảy máu ở đầu bên trên thái dương phải.
L1 chạy đến áp sát H trước tiên, khi gần đến nơi L1 bỏ dao xuống đất rồi vòng hai tay từ trước ra sau ôm H. Khi T và V chạy đến thì L1 nói: “Không được chém, chỉ đánh thôi”. T chạy đến dùng tay phải cầm vào đầu có gắn dao bài vụt 01 nhát (bằng đầu tuýp sắt không gắn dao) trúng vào đầu H, sau đó vụt liên tiếp trúng vào người, tay H. V cũng dùng tay, chân đấm đá liên tiếp vào người H. Sau đó H vùng ra được chạy về phía nhà ngã tư đường thôn gần nhà H. T, L1, V đuổi theo H định đánh tiếp nhưng khi đến gần ngã tư thì có đông người dân ra can ngăn nên T, L1, V không đánh được H nữa. H vừa chửi bới, thách thức T, L1, V vừa đi bộ về nhà, còn L1, V và T vẫn đứng ở ngã tư đường thôn gần gốc cây goòng, cách nhà H khoảng 30m.
Lúc này Nguyễn Văn M đang ở nhà anh Nguyễn Văn D mở điện thoại ra và xem hình ảnh camera ở nhà thì nghe tiếng ông H chửi bới, đánh nhau ở nhà nên M đi ra sân nhà anh D nhặt 01 đoạn gậy gỗ dài khoảng 80 cm, đường kính khoảng 5cm và điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi H về đến cổng nhà thì M cũng vừa điều khiển xe mô tô về đến nhà, M nhìn thấy L1, V và T đang đứng ở ngã tư đường thôn, T vẫn cầm theo 01 con dao bài gắn tuýp sắt chửi bới, thách thức đánh nhau với H và M. Thấy vậy, M cầm đoạn gậy gỗ lấy ở nhà anh D cùng H ra đứng ở cổng chửi bới, thách thức lại L1, V, T. Cùng lúc này, L đi bộ từ nhà cầm theo 01 đoạn gậy tre dài khoảng 1,5m, đường kính 03 cm, sau đó đi nhờ xe mô tô của một nam thanh niên (L khai không rõ tên tuổi địa chỉ) đi qua nhà H thì xuống xe. L cầm đoạn gậy tre đi đến vị trí cách cổng nhà H khoảng 05 mét giơ gậy chỉ về phía H và M chửi bới, thách thức đánh nhau; H và M cũng chửi bới, thách thức lại L. Sau đó, H đi vào lấy ở vị trí nắp bể nước trong sân 01 viên đá và 01 viên gạch đi ra đường ném 01 viên đá về phía L nhưng không trúng. M đi đến chỗ H giằng viên gạch H đang cầm trên tay nhưng không giằng được nên M chạy ra ven đường trước cổng nhà nhặt gạch, đá ném liên tiếp 02 lần về phía L1, V, L và T nhưng không trúng ai. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày do được nhiều người dân can ngăn và nói đã gọi báo công an nên L1, L, T, V bỏ về, còn H và M đi vào nhà không chửi bới, đánh nhau nữa.
Hậu quả:
- Phạm Tuấn L có 01 vết bầm tím, sưng cẳng tay trái, đã kiểm tra tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình nhưng không phải nhập viện điều trị.
- Nguyễn Văn H có 01 vết bầm tím, sưng nề kích thước (2x3)cm ở vùng thái dương trái vị trí đuôi mắt trái, 01 vết bầm tím kích thước (3x2,5)cm dưới khuỷu tay trái và 01 vết bầm tím kích thước (3x2)cm ở phía ngoài đùi phải, đã được nhập viện và điều trị tại Trung tâm y tế huyện G và Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình từ ngày 19/02/2021 đến ngày 26/02/2021 thì ra viện.
- Phạm Văn T có 01 vết rách da chảy máu dài khoảng 3,5 cm, sưng ở vùng đỉnh đầu phải, đã được nhập viện và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình từ ngày 19/02/2021 đến ngày 26/02/2021 thì ra viện.
- L1, V và M không bị thương tích gì.
* Cơ quan CSĐT Công an huyện G đã thu giữ tại hiện trường 01 viên đá không rõ hình dạng kích thước (14x7)cm; 01 viên gạch đỏ kích thước (11x10x5)cm; thu giữ tại nhà anh Nguyễn Văn Q 01 điếu cày bằng tre, màu nâu đen có chiều dài 70cm, đường kính 03cm; Phạm Tuấn L tự nguyện giao nộp 01 đoạn gậy tre dài 1,5m, đường kính đoạn lớn nhất 03cm, nhỏ nhất 01cm; Bùi Ngọc V tự nguyện giao nộp 01 con dao tự chế có chiều dài 1,2m, phần cán bằng tuýp sắt dài 97cm, đường kính 02cm, phần lưỡi là 01 dao bài dài 23cm; Phạm Văn T tự nguyện giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH, màu đen, BKS 35B2-507.65.
* Ngày 06/3/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện G ra các Quyết định trưng cầu giám định pháp y số 31, 32, 33 yêu cầu Trung tâm pháp y tỉnh Ninh Bình xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Nguyễn Văn H, Phạm Tuấn L và Phạm Văn T. Tuy nhiên H, L và T đều đã có đơn kiên quyết xin từ chối giám định tỉ lệ tổn thương cơ thể và không đề nghị Cơ quan điều tra giải quyết vấn đề thương tích của bản thân.
Sau khi sự việc xảy ra, chính quyền địa phương, các tổ chức, đoàn thể xã hội và quần chúng nhân dân thôn X, xã G, huyện G rất hoang mang lo lắng, thấy bất an về tình hình an ninh trật tự ở khu vực.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 67/2021/HS-ST ngày 03/11/2021 Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Ninh Bình đã xét xử và quyết định: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn M, Phạm Tuấn L, Phạm Văn T, Nguyễn Văn H, Lê Văn L1 và Bùi Ngọc V phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 25 (Hai mươi lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 07/4/2021.
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù; nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (Bốn mươi tám) tháng, tính từ ngày tuyên án ngày 03/11/2021.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo 04 bị cáo khác bằng các hình thức phạt tù, cho hưởng án treo và quyết định về xử lý vật chứng, về án phí, tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 17/11/2021 bị cáo Nguyễn Văn H và ngày 18/11/2021 bị cáo Nguyễn Văn M đều có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và đề nghị cấp phúc thẩm xem xét hủy bản án sơ thẩm tuyên bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn M vô tội do Công an huyện G đã ra quyết định xử phạt hành chính lại còn truy tố các bị cáo về tội Gây rối trật tự công cộng là không đúng.
Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn M vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tại phiên tòa phúc thẩm sau khi phân tích đánh giá tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn M; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 67/2021/HS-ST ngày 03/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Ninh Bình về phần hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Văn M và Nguyễn Văn H.
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn M.
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn H.
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 25 (Hai mươi lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 07/4/2021.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù; nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (Bốn mươi tám) tháng, tính từ ngày tuyên án ngày 03/11/2021.
Các bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực thi hành.
Người bào chữa cho các bị cáo có quan điểm: Bản án sơ thẩm xác định các bị cáo M, H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” là chưa chính xác; Công an huyện G xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe nhưng truy tố các bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” thuộc trường hợp “ dùng hung khí ...” , Các bị cáo chỉ có hành động tự vệ khi có người đến nhà đe doạ chửi mắng nên có những lời lẽ đáp trả lại và dùng gạch đá để tự vệ khi có người đến nhà hành hung thách thức anh M và ông H, việc ông H và anh M dùng gạch đá ném ra đường chỉ là phòng vệ chính đáng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sửa bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo theo khoản 1 Điều 318 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 12 tháng tù; bị cáo Nguyễn Văn H từ 10 đến 12 tháng án treo.
Các bị cáo không tranh luận với Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án, nhất trí với bài bào chữa của luật sư và không có bổ sung gì thêm về bài bào chữa, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Lời nói sau cùng của các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H nhận thức được hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hình thức đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H làm trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H.
2.1 Về nội dung vụ án và tội danh:
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H đã khai nhận diễn biến hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong cùng vụ án; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, biên bản vụ việc cùng các vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:
Trong khoảng thời gian từ 14 giờ 50 đến 15 giờ 30 phút ngày 19/02/2021.
Sau khi gặp nhau và chửi bới, thách thức nhau, M lấy 01 chiếc điếu cày bằng ống tre tròn vụt liên tiếp 02 phát từ trên xuống dưới, từ phải qua trái về phía L nhưng chỉ vào tay L.
Sau đó, tại đường trục thôn X, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình bị cáo Phạm Văn T, Lê Văn L1, Bùi Ngọc V và Phạm Tuấn L đã có hành vi chửi bới, đe dọa, thách thức và dùng dao hàn tuýp sắt, gậy tre (là các hung khí) tham gia đánh nhau với Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn M. Bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn M cũng có hành vi chửi bới, thách thức đánh nhau và dùng gậy gỗ, gạch đá (là các hung khí) ném lại T, L1, V và L đã gây mất trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo sợ, bức xúc trong quần chúng nhân dân và chính quyền địa phương.
Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn M, Phạm Tuấn L, Phạm Văn T, Nguyễn Văn H, Lê Văn L1 và Bùi Ngọc V phạm đã bị Tòa án nhân dân huyện G xét xử về tội “Gây rối trật tự công cộng” thuộc trường hợp “Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Như vậy, kháng cáo của các bị cáo M, H và Quan điểm người bào chữa của các bị cáo M, H là không có căn cứ chấp nhận.
2.2. Về việc xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác đối với các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H, Hội đồng xét xử xét thấy:
Tài liệu hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo M, H tại phiên tòa phúc thẩm thể hiện rõ: Do M và L có hành vi xô sát với nhau ở quán rửa xe nhà anh Q, M đã có hành vi cầm điếu cày vụt vào người anh L 2 phát rồi bỏ chạy, nên anh L tức tối đã về nhà nói chuyện với em trai là Phạm Văn T, anh T đã dùng xe SH chạy qua nhà M chửi bới, thách thức gây sự với M thì gặp ông H bố M hai bên chửi nhau lời qua tiếng lại, thách thức nhau ông H cầm gạch đá đuổi T ở đường trục thôn và T đã gọi L1 ra hỗ trợ thì L1 gọi thêm mấy người là V, L1 cùng tham gia, nhóm của T đã dùng 03 dao tự chế đánh nhau với H và M gây náo loạn khu dân cư thôn X.
Như vậy, Bị cáo H và M có gây thương tích cho T và L, cụ thể:
Sau khi gặp nhau và chửi bới, thánh thức nhau, M lấy 01 chiếc điếu cày bằng ống tre tròn, dài 70 cm, đường kính 05 cm đứng lên và vụt liên tiếp 02 phát từ trên xuống dưới, từ phải qua trái về phía L, L giơ tay trái lên đỡ thì bị M vụt trúng cẳng tay trái 02 phát. Hậu quả làm Phạm Tuấn L có 01 vết bầm tím, sưng cẳng tay trái, đã kiểm tra tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình nhưng không phải nhập viện điều trị.
Sau khi chửi bới, thánh thức nhau H ném 2 viên gạch nhưng không trúng ai, thấy T, L1 và V đuổi đến, H cúi xuống nhặt 02 viên gạch ném về phía L1, T, V liên tiếp 02 lần rồi quay đầu bỏ chạy, lần đầu tiên không trúng ai, lần thứ hai 01 viên gạch trúng vào đầu của T. Hậu quả làm Phạm Văn T có 01 vết rách da chảy máu dài khoảng 3,5 cm, sưng ở vùng đỉnh đầu phải, đã được nhập viện và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình từ ngày 19/02/2021 đến ngày 26/02/2021 thì ra viện.
Cơ quan điều tra Công an huyện G đã ra quyết định trưng cầu giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Phạm Tuấn L, Phạm Văn T, Nguyễn Văn H, nhưng các bị cáo đều từ chối giám định sức khỏe và không có yêu cầu gì. Hội đồng xét xử xét thấy sự việc xâm hại sức khỏe người khác là có thật và được điều tra khách quan.
Do các bị cáo đều từ chối giám định nên hành vi của các bị cáo M, H, L1, T và V chưa đủ cơ sở để xử lý về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điều 134 Bộ luật Hình sự, song thương tích của Phạm Tuấn L (BL 496) và Phạm Văn T (BL 468- 483) và Nguyễn Văn H là có và được xác định tại Biên bản xem xét dấu vết thân thể và điều trị tại bệnh viện theo bệnh án. Công an huyện G đã ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác đối với các bị cáo trong đó có Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H là đúng pháp luật. Vì vậy, kháng cáo của các bị cáo và quan điểm của Luật sư bào chữa cho các bị cáo là không có căn cứ để chấp nhận.
2.3. Về hình phạt:
Tòa án nhân dân huyện G đã xét xử các bị cáo về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” và xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 25 tháng tù; bị cáo Nguyễn Văn H xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp với quy định của pháp luật. Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm và tại phiên tòa các bị cáo không xuất trình được chứng cứ nào mới để Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo M và H.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H đề nghị hủy bản án sơ thẩm là không có căn cứ chấp nhận. Cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm số 67/2021/HS-ST ngày 03/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình về phần hình phạt đã tuyên đối với các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H.
[3] Yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn M.
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn H.
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H về đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2021/HS-ST ngày 03/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Ninh Bình về phần hình phạt của các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H.
Xử phạt:
- Bị cáo Nguyễn Văn M 25 (hai mươi lăm) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/4/2021.
- Bị cáo Nguyễn Văn H 24 (hai mươi bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng về tội “Gây rối trật tự công cộng”, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Uỷ ban nhân dân xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình và gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên theo quy định của Luật thi hành án Hình sự thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án Hình sự.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 18/03/2022
Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 07/2022/HS-PT
Số hiệu: | 07/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về