Bản án về tội đánh bạc số 76/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 76/2022/HS-ST NGÀY 25/03/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 25 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Trịnh Minh N, sinh năm: 1991 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Tổ b, khu phố B, phường B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Trịnh Ngọc T và bà Nguyễn Thị H; có 01 người con;

Tiền án: Bản án số 68/2021/HSST ngày 16/3/2021, Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 25.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 89/2009/HSST ngày 27/8/2009 của Tòa án thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khánh), tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 01 năm về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/12/2021 cho đến nay.

2. Ngô Văn C, sinh năm 1986 tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Y, xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Tạm trú: Số C, tổ B, khu phố A, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Ngô Văn H và bà Lê Thị T; Vợ Nguyễn Thị X và có 02 người con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

1 3. Lê Tuấn A, sinh năm 1996 tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Y, xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Tạm trú: Khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Lê Văn D và bà Nguyễn Thị T; Có vợ Trần Thị Lệ Q và có 01 người con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

4. Bồ Văn T, sinh năm 1993 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: Số C, khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Bồ Văn K và bà Trương Thị H; Có vợ Thái Kim K và có 02 người con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

5. Hồ Văn D, sinh năm 1985 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn Y, xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Tạm trú: Số A, khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Tài xế; Con ông Hồ Văn T và bà Nguyễn Thị O; Có vợ Lê Thị H và 02 người con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

6. Đặng Công V, sinh năm 1991 tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn L, xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Tạm trú: Khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Đặng Công N (đã chết) và bà Trần Thị M; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

7. Nguyễn Bá P, sinh năm 1984 tại Thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Thôn K, xã T, huyện C, Thành phố Hà Nội. Tạm trú: Số C, tổ D, khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Nguyễn Bá K và bà Nguyễn Thị D; Có vợ Nguyễn Thị H và có 02 người con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Các bị cáo đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 28/6/2021, Ngô Văn C, Lê Tuấn A, Bồ Văn T, Hồ Văn D, Đặng Công V, Nguyễn Bá P và các đối tượng tên N, H (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đến phòng trọ số C, cơ sở trọ địa chỉ tổ B, khu phố B, phường B, thành phố T do Trịnh Minh N, Trịnh Ngọc T thuê ở, kinh doanh. Lúc này, Trịnh Ngọc T đang nằm ngủ trong phòng, còn N cho C, A, T, D, V, P và các đối tượng tên N, H đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức bài cào liêng 3 lá, đặt tẩy 50.000 đồng, tố từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng. Trước lúc chơi, Ngọc bán 04 bộ bài tây 52 lá với số tiền 40.000 đồng và bán nước uống, phục vụ trong lúc đánh bạc.

Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, Công an phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương phát hiện bắt quả tang, thu giữ tiền trên chiếu bạc 6.300.000 đồng, thu giữ trong người các con bạc 12.330.000 đồng, 04 bộ bài tây 52 lá. Các đối tượng N, H bỏ chạy thoát.

Số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc như sau:

- Ngô Văn C mang theo 2.300.000 đồng để đánh bạc, quá trình chơi thua 300.000 đồng, khi bị bắt giữ thu giữ tiền trên chiếu bạc 2.000.000 đồng.

- Lê Tuấn A mang theo 11.000.000 đồng, sử dụng 2.000.000 đồng đánh bạc, quá trình chơi thua 350.000 đồng, khi bị bắt thu giữ tiền trên chiếu bạc 400.000 đồng và trong người 10.250.000 đồng.

- Bồ Văn T mang theo 1.500.000 đồng để đánh bạc, quá trình chơi thua 1.000.000 đồng, khi bị bắt giữ thu giữ tiền trên chiếu bạc 500.000 đồng.

- Hồ Văn D mang theo 1.050.000 đồng để đánh bạc, quá trình chơi không thắng không thua, khi bị bắt giữ thu giữ trên chiếu bạc 1.050.000 đồng.

- Đặng Công V mang theo 980.000 đồng để đánh bạc, quá trình chơi thua 300.000 đồng, khi bị bắt giữ thu giữ trên chiếu bạc 600.000 đồng và thu giữ trong người 80.000 đồng bạc.

- Nguyễn Bá P mang theo 200.000 đồng để đánh bạc, quá trình chơi thua 200.000 đồng, khi bị bắt không thu giữ gì.

- Trịnh Minh N sử dụng địa điểm do mình thuê ở cho những người đến đánh bạc, cung cấp 04 bộ bài tây 52 lá và bán nước uống trong quá trình đánh bạc.

Tổng số tiền sử dụng đánh bạc là 9.630.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 66/CT-VKS -TA ngày 23/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo:

Trịnh Minh N, Ngô Văn C, Lê Tuấn A, Bồ Văn T, Hồ Văn D, Đặng Công V, Nguyễn Bá P về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trịnh Minh N từ 08 đến 11 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt các bị cáo Ngô Văn C, Lê Tuấn A, Bồ Văn T, Hồ Văn D, Đặng Công V, Nguyễn Bá P, mỗi bị cáo từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 04 (bốn) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng.

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 9.630.000 đồng.

Buộc bị cáo Ngọc nộp lại 40.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Các bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nội dung đơn thể hiện các bị cáo thống nhất nội dung bản Cáo trạng đã truy tố về tội danh, khung hình phạt, không có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thuận An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Các bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt là tự nguyện, không trái pháp luật, việc vắng mặt của các bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

[3] Lời khai nhận của các bị cáo tại Cơ quan Điều tra phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 28/6/2021, bị cáo Trịnh Minh N sử dụng phòng trọ của mình thuê tại cơ sở trọ thuộc tổ C, khu phố B, phường B, thành phố T rồi bán các bộ bài, nước uống cho các bị cáo Ngô Văn C, Lê Tuấn A, Bồ Văn T, Hồ Văn D, Đặng Công V, Nguyễn Bá P đánh bạc đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày thì bị bắt quả tang cùng tang vật với tổng số tiền sử dụng đánh bạc là 9.630.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm nhưng vì đam mê cờ bạc, các bị cáo rủ rê nhau rồi tụ tập dùng tiền để cá cược thắng thua với nhau thông qua hình thức bài cào 3 lá. Bị cáo Trịnh Minh N sử dụng nơi ở của mình rồi cung cấp bài, nước uống nhằm thu lợi. Hành vi của các bị cáo trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, lỗi của các bị cáo là cố ý trực tiếp, do đó cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Trong vụ án có vai trò đồng phạm nhưng đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, phân công cụ thể nên vai trò ngang nhau.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo N phạm tội thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2018). Ngoài ra, trước đó bị cáo N còn bị Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khánh), tỉnh Đồng Nai xử phạt về hành vi đánh bạc, tuy đã xóa án tích nhưng điều đó thể hiện bản chất của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội cao nhất trong vụ án nên cần cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Các bị cáo C, A, T, D, V, P có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ theo điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[9] Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo là có căn cứ nên chấp nhận.

[10] Đối với các đối tượng tên H, N đã trốn thoát hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan Điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.

[11] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Quá trình điều tra, Cơ quan Điều tra thu giữ:

04 bộ bài là công cụ phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

9.630.000 đồng sử dụng đánh bạc nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà Nước.

Số tiền 9.000.000 đồng của bị cáo Lê Tuấn A không sử dụng đánh bạc, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị cáo.

Bị cáo Trịnh Minh N thu lợi 40.000 đồng từ việc bán bài, nước uống nên buộc bị cáo N nộp lại để sung vào ngân sách Nhà nước.

[12] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Trịnh Minh N.

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Ngô Văn C, Lê Tuấn A, Bồ Văn T, Hồ Văn D, Đặng Công V, Nguyễn Bá P.

- Các Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Các Điều 106, 136; điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố các bị cáo: Trịnh Minh N, Ngô Văn C, Lê Tuấn A, Bồ Văn T, Hồ Văn D, Đặng Công V, Nguyễn Bá P phạm tội “Đánh bạc”.

Mức hình phạt:

1.1. Xử phạt bị cáo Trịnh Minh N 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2021.

1.2. Xử phạt bị cáo Ngô Văn C 25.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước. nước.

nước. nước.

1.3. Xử phạt bị cáo Lê Tuấn A 25.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà

1.4. Xử phạt bị cáo Bồ Văn T 25.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

1.5. Xử phạt bị cáo Hồ Văn D 25.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

1.6. Xử phạt bị cáo Đặng Công V 25.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà

1.7. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá P 25.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: Số tiền 9.630.000 đồng.

- Tịch thu tiêu hủy: 04 bộ bài Tây đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/02/2022 và Ủy nhiệm chi số 17 ngày 23/3/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An).

- Buộc bị cáo Trịnh Minh N nộp số tiền 40.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

3. Về án phí:

Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 76/2022/HS-ST

Số hiệu:76/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về