Bản án về tội đánh bạc số 646/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 646/2021/HS-PT NGÀY 14/12/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 14 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2021/TLPT-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn N, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 154/2020/HS- ST ngày 02 tháng 12 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

* Bị cáo có kháng cáo:

Nguyn Văn N; sinh ngày 08/7/1977, tại tỉnh Hải Dương; nơi ĐKNKTT: tổ 2, khu 4, phường Bãi Ch, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ch1 và bà Nguyễn Thị V; vợ là Nguyễn Thị Minh L1; có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; bị bắt quả tang ngày 15/5/2020, tạm giam đến ngày 08/6/2020, được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Lại Thế Th, Phạm Thị O, Đồng Thị G, Phạm Thị L2, Đào Thị H, Lê Thị L3, Nguyễn Thị H1, Lê Thị Th1 không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ cuối năm 2019, Nguyễn Văn N đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức nhận bảng lô, đề, ba càng, lô xiên của Phạm Thị O, Đồng Thị G, Đào Thị H, Phạm Thị L2, Lê Thị L3, Nguyễn Thị H1, Lê Thị Th1 và 14 đối tượng gồm H2, M, H3, G, L4, H3, H4, H3, Đ, Nh, S, H5, Tr, Th (hiện không xác định được) ở khu vực phường Bãi Ch, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh. O, G, H, L2, L3, H1, Th1 và 14 đối tượng trên nhận tiền những người đánh bạc dưới hình thức “lô”, “đề”, “ba càng”, “lô xiên 2, 3, 4” và dựa vào các giải kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc hàng ngày để xác định thắng thua, cụ thể: Nếu đánh “đề”, người chơi chọn số từ 00 đến 99 để đặt cược tiền, nếu số đặt cược trùng với hai số cuối giải đặc biệt thì người chơi thắng và nhận được nhận được số tiền gấp từ 70 lần số tiền đặt cược; nếu đánh “ba càng” người chơi chọn số từ 000 đến 999 để đạt cược tiền, nếu số đặt cược trùng với ba số cuối giải đặc biệt thì người chơi thắng và nhận được số tiền thắng gấp 400 lần số tiền đặt cược; nếu đánh “lô thường”, người chơi chọn số từ 00 đến 99 để đặt cược và phải trả số tiền mỗi điểm chơi từ 22.500 đồng đến 23.000 đồng, nếu số đặt cược trùng với bất kỳ hai số cuối nào của các giải, thì người chơi thắng và được nhận số tiền 80.000 đồng; “lô xiên 2”, “lô xiên 3”, “lô xiên 4” thì người chơi lựa chọn số từ 00 đến 99 để đặt cược và phải trả số tiền mỗi điểm là 10.000 đồng, nếu đánh “lô xiên 2” thì hai số lựa chọn phải trùng với bất kỳ hai số cuối các giải và số tiền thắng nhận được là 100.000 đồng và ngược lại, “lô xiên 3” thì ba số lựa chọn phải trùng với ba số cuối bất kỳ của các giải và số tiền thắng nhận được là 400.000 đồng và ngược lại, “lô xiên 4” thì bốn số lựa chọn trùng với số cuối bất kỳ của các giải và số tiền thắng nhận được là 1.000.000 đồng và ngược lại. Nguyễn Văn N thống nhất với O, G, L2, H, L3, H1, Th1 khi những người này nhận tiền từ những người đã đăng ký chơi, thì chỉ phải chuyển cho N số tiền thấp hơn số tiền đã nhận từ 500 đồng đến 1.000 đông một điểm lô; đối với đề, ba càng, lô xiên được trừ từ 15% đến 25% số tiền đã nhận của những người ghi lô, đề, ba càng. Hàng ngày, trước khi có kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, O, G, H, L2, L3, H1, Th1 và 14 đối tượng kể tên trên tổng hợp số tiền đánh bạc vào giấy (bảng) để Lại Thế Th là người làm thuê cho N đến thu bảng về nộp cho N. Sau đó, dựa vào kết quả xổ số miền Bắc, N xác định số tiền thắng, thua rồi thanh toán hoặc thu tiền của O, G, H, L2, L3, H1, Th1 và 14 đối tượng đó.

Ngày 15/5/2020, Nguyễn Văn N đưa cho Lại Thế Th 26.040.000 đồng nếu cần thì sử dụng vào việc thanh toán với những người nộp bảng chơi lô, đề và đi thu 21 bảng của những đối tượng trên. Đến 18 giờ 05 phút cùng ngày, khi Th đang giao lại 21 bảng vừa thu được cho N thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh bắt quả tang, thu giữ 21 bảng lô, đề, 02 máy tính, 04 bút bi. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của N 02 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung; thu giữ của Th 02 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel và số tiền 26.040.000 đồng nêu trên. Cùng ngày, Phạm Thị O, Đồng Thị G, Phạm Thị L2, Đào Thị H ra đầu thú, O giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, 01 điện thoại nhãn hiệu Honor, 01 bản photo bảng ghi số lô số đề ngày 15/5/2020; G giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia và số tiền 7.246.000 đồng, 16 phơ ghi số lô, đề; L2 giao nộp 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung, 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia và số tiền 3.430.000 đồng, H giao nộp 01 điện thoại Iphone và số tiền 2.328.000 đồng, 09 phơ ghi số lô, đề, 01 tờ giấy có dòng kẻ ghi các số và chữ.

Ngày 16/5/2020, Lê Thị L3 đầu thú giao nộp 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo và số tiền 410.000 đồng.

Trước ngày 15/5/2020 Nguyễn Văn N, Lại Thế Th có nhận bảng lô, đề của các đối tượng trên nhưng không ghi chép sổ sách và cũng không nhớ được cụ thể từng người chơi như thế nào.

Căn cứ vào các bảng lô đề đã thu giữ, xác định được số tiền N, Th đánh bạc ngày 15/5/2020 với từng người như sau: Phạm Thị O số tiền đánh bạc là 21.166.000 đồng, Đồng Thị G số tiền đánh bạc là 6.360.000 đồng, Phạm Thị L2 số tiền đánh bạc là 13.890.000 đồng, Đào Thị H số tiền đánh bạc là 7.780.000 đồng, Lê Thị L3 số tiền đánh bạc là 6.860.000 đồng, Nguyễn Thị H1 số tiền đánh bạc là 27.740.000 đồng, Lê Thị Th1 số tiền đánh bạc là 7.555.000 đồng và 14 đối tượng chưa xác định được lai lịch, địa chỉ, với số tiền đánh bạc cụ thể là: H2 7.735.000 đồng, M 960.000 đồng, H3 Lan 4.530.000 đồng, L4 1.377.000 đồng, H3 Xe 8.795.000 đồng, Hải 14.895.000 đồng, H3 4.990.000 đồng, Đ 3.540.000 đồng, Nh 1.238.000 đồng, S 2.904.000 đồng, H5 1.925.000 đồng, Tr 2.150.000 đồng, Th 1.083.000 đồng.

Ti Cơ quan điều tra Nguyễn Văn N, Lại Thế Th khai nhận hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức lô, đề ngày 15/5/2020 như nêu trên.

Các bị cáo Phạm Thị O, Đồng Thị G, Phạm Thị L2, Đào Thị H, Lê Thị L3, Nguyễn Thị H1, Lê Thị Th1 khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung vụ án, lời khai của N và Th về việc hàng ngày các bị cáo thu tiền ghi lô, đề, ba càng, lô xiên của nhiều người không quen biết rồi tổng hợp thành các bảng. N trực tiếp đến các điểm của các bị cáo thu bảng trực tiếp thanh toán tiền thắng, thua hoặc Th là người trực tiếp thanh toán cho các bị cáo. Sau đó, các bị cáo thanh toán cho những người chơi lô, đề, lô xiên, ba càng;

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 154/2020/HS-ST ngày 02/12/2020, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 36 tháng tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án được trừ những ngày tạm giam từ 15/5/2020 đến ngày 08/6/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác; xử lý vật chứng; trách nhiệm bồi thường dân sự; án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 11/12/2020, bị cáo Nguyễn Văn N có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Ti phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Văn N vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm quy kết và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ mới như: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo có công phòng chống tội phạm được tặng giấy khen và tích cực tham gia phòng chống covid tại địa phương được tặng giấy khen, bị cáo đã nộp tiền phạt và tiền án phí sơ thẩm từ đó chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm xác định tội danh và điều luật đối với bị cáo Nguyễn Văn N là có căn cứ đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo mức án 09 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm các tình tiết giảm nhẹ mới như: bị cáo được tặng giấy khen về trấn áp tội phạm, giấy khen của Chủ tịch UBND phường Bãi Cháy về công tác phòng chống Covid tại địa phương, bị cáo đã nộp tiền phạt và tiền án phí sơ thẩm, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo Nguyễn Văn N.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Văn N đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Quảng Ninh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N trong hạn luật định, đảm bảo về hình thức nên được chấp nhận để xét.

[2] Về nội dung:

Ti phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn N khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm quy kết, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án đều khai nhận hành vi chơi lô, đề, ba càng, lô xiên, được thua bằng tiền như nội dung vụ án bản án sơ thẩm quy kết. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khẳng định lời khai nhận trong quá trình điều tra là tự nguyện, đúng sự thật, thừa nhận nội dung Bản án sơ thẩm đã nêu đúng hành vi của bị cáo; kết hợp với các tài liệu, chúng cứ có trong hồ sơ, đã được làm rõ tại phiên tòa, có căn cứ xác định: Ngày 15/5/2020, tại khu vực phường Bãi Cháy, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn N đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi lô, đề, ba càng và lô xiên được thua bằng tiền với: Phạm Thị O, Đồng Thị G, Đào Thị H, Phạm Thị L2, Lê Thị L3, Nguyễn Thị H1, Lê Thị Th1 và các đối tượng gồm H2, M, H3, G, L4, H3, Hải, H3, Đ, Nh, S, H5, Tr và Th (hiện không xác định được); theo thỏa thuận, trước khi có kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc. O, G, H, L2, L3, H1, Th1 và các đối tượng có tên trên, tổng hợp số tiền đánh bạc của từng người chơi vào giấy (gọi là bảng) để Lại Thế Th đến thu bảng về nộp cho N; sau khi có kết quả xổ số Miền Bắc, N sẽ xác định số tiền thắng, thua rồi thanh toán hoặc thu tiền của O, G, H, L2, L3, H1, Th1 và các đối tượng nêu trên. Khoảng 18 giờ 05 phút, ngày 15/5/2020, sau khi Lại Thế Th thu được 21 bảng mang về giao cho Nguyễn Văn N tại nhà N ở tổ 2, khu 4, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh, thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh bắt quả tang. Tổng số tiền ghi trên 21 bảng là 176.303.000 đồng, trong đó số tiền N và Th đánh bạc với: Nguyễn Thị H1 là 27.740.000 đồng, Phạm Thị O là 21.166.000 đồng, Phạm Thị L2 là 13.890.000 đồng, Đào Thị H là 7.780.000 đồng, Lê Thị Th1 là 7.555.000 đồng, Lê Thị L3 là 6.860.000 đồng và Đồng Thị G là 6.360.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn N, Lại Thế Th, Phạm Thị O, Đồng Thị G, Đào Thị H, Phạm Thị L2, Lê Thị L3, Nguyễn Thị H1 và Lê Thị Th1 đã phạm vào tội “Đánh bạc”. Trong đó bị cáo Nguyễn Văn N và bị cáo Lại Thế Th phạm tội thuộc trường hợp “tiền dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên”, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn N và các bị cáo khác về tội “Đánh bạc” điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn N và các bị cáo trong vụ án là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác; làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, làm mất trận tự trị an địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật, nhưng vì vụ lợi nên vẫn cố ý thực hiện; do đó cn phải xử lý nghiêm mới đáp ứng yêu cầu giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn N kháng cáo xin được hưởng án treo, xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 36 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, mức hình phạt là phù hợp. Tại cấp sơ thẩm bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được UBND xã Liên Hòa tặng giấy khen về thành tích đấu tranh trấn áp tội phạm năm 2020, có chú ruột và cậu ruột là Liệt sỹ. Tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm các tình tiết giảm nhẹ như: bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự; hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo đã nộp số tiền thu phạt và tiền án phí sơ thẩm, được tặng thưởng giấy khen trong phòng chống dịch covid-19, có thành tích trong công tác phòng chống tội phạm nên được áp dụng thêm điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng nên việc cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

c quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xét.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N; Sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 154/2020/HS-ST ngày 02 tháng 12 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh như sau:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn N cho Ủy ban nhân dân phường Bãi Cháy, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn N không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

97
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 646/2021/HS-PT

Số hiệu:646/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về