Bản án về tội đánh bạc số 628/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 628/2019/HS-ST NGÀY 31/12/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 31 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 618/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 629/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Văn S, (tên gọi khác: S gà), sinh năm 1984, tại Đ; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: khu phố Đ, phường H, thành phố B, tỉnh Đ; Chỗ ở hiện nay: Như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Không; Con ông Trần Công N, sinh năm 1945 (đã chết) và bà Võ Thị X, sinh năm 1950; Gia đình có 10 anh em, bị cáo là con thứ mười; Có vợ là Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1986 và có hai con, sinh năm 2007 và năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang và tạm giữ ngày 16/01/2019, đến ngày 24/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa hủy bỏ tạm giữ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

2. Họ và tên: Võ Minh T1 (tên gọi khác: Không), sinh năm 1984, tại Đ; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: khu phố B, phường B, thành phố B, tỉnh Đ; Chỗ ở hiện nay: Như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: Lớp 06/12; Con ông Võ Văn C, sinh năm 1958 và bà Quỳnh Kim L, sinh năm 1960; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Có vợ là Trần Lê H, sinh năm 1983 và có 01 con là Võ Thành Đ, sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh số 117 ngày 16/8/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Biên Hòa.(có mặt)

3. Họ và tên: Phạm Trần Minh T2 (Tên gọi khác: Cu lòi); sinh năm 1986, tại Đ; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: ấp T, xã B, huyện V, tỉnh Đ; Chỗ ở hiện nay: Như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: Lớp 10/12; Con ông Phạm Hoàng C, sinh năm 1958 (đã chết) và bà Trần Thị Bạch T, sinh năm 1960; Bị cáo là người con duy nhất trong gia đình và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 10/9/2019, chuyển tạm giam theo lệnh số 416 ngày 12/9/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà, đến ngày 15/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh.(có mặt)

4. Họ và tên: Dư Thiện N1 (tên gọi khác: Không), sinh năm 1971, tại Đ; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: ấp T, phường B, thành phố B, tỉnh Đ; Chỗ ở hiện nay: Như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: Lớp 06/12; Con ông Dư Văn N, sinh năm 1927 và bà Mai Thị T, sinh năm 1932; Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình; Có vợ là Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1977 và có 02 con sinh năm 2005 và năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh số 200 ngày 16/8/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Biên Hòa.(có mặt)

5. Họ và tên: Trần Thanh T3 (tên gọi khác: Không; sinh năm 1978, tại T; Giới tính: Nam; Nơi ĐKNKTT: ấp L, xã L, huyện C, tỉnh T; Nơi cư trú hiện nay: thuê trọ xã H, thành phố B, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 05/12; Con ông Trần Văn H, sinh năm 1944 (đã chết) và bà Võ Thị S, sinh năm 1948; Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Có vợ là Hồ Thị T, sinh năm 1978 và có 01 con sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh số 195 ngày 16/8/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. (có mặt)

6. Họ và tên: Bùi Vi N2 (tên gọi khác: Không), sinh năm 1980, tại P; Giới tính: Nam; Nơi ĐKNKTT: đường T, phường N, thành phố V, tỉnh B; Nơi cư trú hiện nay: Thuê trọ tại khu phố B, phường H, TP. B, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Lớp 02/12; Con ông Bùi Vi T, sinh năm 1956 và bà Trần Thị L, sinh năm 1959; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ là Lê Thị Diệu P, sinh năm 1986 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh số 199 ngày 16/8/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. (có mặt)

7. Họ và tên: Phạm Duy K (tên gọi khác: Không), sinh năm 1993, tại T; Giới tính: Nam; Nơi ĐKNKTT: Thôn H, xã B, huyện K, tỉnh T; Nơi cư trú hiện nay: Thuê trọ khu phố B, phường B, thành phố B, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Con ông Phạm Văn H, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1972; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Có vợ là Nguyễn Thị Y, sinh năm 1994 và chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh số 196 ngày 16/8/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

8. Họ và tên: Nguyễn Hữu T4 (tên gọi khác: Không), sinh năm 1993 tại C; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: khu vực L, phường T, quận T, thành phố C; Chỗ ở hiện nay: Thuê trọ tại ấp T, phường B, TP. B, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Trình độ học vấn: Lớp 02/12; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1950 (đã chết) và bà Lê Thị Đ, sinh năm 1954; Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ sáu và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh số 198 ngày 16/08/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Biên Hòa. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 16/01/2019, tại đoạn đường nội bộ thuộc khu phố Đ, phường H, thành phố Biên Hòa, Võ Minh T1, Trần Văn S thay nhau làm cái đánh bạc với Nguyễn Hữu T4, Dư Thiện N1, Trần Thanh T3, Phạm Duy K, Bùi Vi N2, Phạm Trần Minh T2 và một số đối tượng (Chưa rõ lai lịch) thắng thua bằng tiền dưới hình thức lắc “Xí ngầu”.

Cách thức đánh bạc như sau: Một bộ Tài – Xỉu gồm 01 chén, 01 đĩa và 03 hột xí ngầu có 06 mặt, trên các mặt có các nút tương đương với các số từ 01 đến 06. Trên chiếu bạc được chia làm 02 phần “Tài” và “Xỉu”. Người làm cái sẽ bỏ 03 hột xí ngầu vào đĩa, úp chén lên đĩa, cầm xóc lên xuống nhiều lần rồi đặ t xuống. Người chơi tự đặt tiền vào phần “Tài” hoặc phần “Xỉu” trên chiếu bạc, để thắng thua trực tiếp với người làm cái. Khi mở chén ra, nếu mặt trên của 03 hột xí ngầu có các nút cộng lại được tổng số từ 10 điểm trở xuống thì gọi là “Xỉu”, người làm cái sẽ thắng số tiền bên “Tài” và thua số tiền bên “Xỉu”; nếu tổng số các nút cộng lại được 11 điểm trở lên thì gọi là “Tài”, người làm cái sẽ thắng số tiền bên “Xỉu” và thua số tiền bên “Tài”.

Số tiền từng người sử dụng đánh bạc cụ thể như sau:

- Võ Minh T1: Tham gia đánh bạc từ 13 giờ ngày 16/01/2019 và sử dụng 3.400.000đ để làm cái thắng thua với những người tham gia đánh bạc. T1 làm cái liên tục đến 13 giờ 30 phút cùng ngày thì bị thua 3.300.000đ, nên giao lại cho Trần Văn S làm cái và T1 tiếp tục tham gia chơi với vai trò là con bạc đến khi bị bắt quả tang.

Khi bị bắt, thu giữ trên người T1 số tiền 100.000đ sử dụng vào việc đánh bạc.

- Trần Văn S: Vào làm cái thay vị trí của Võ Minh T1 từ lúc 13 giờ 30 phút ngày 16/01/2019 và sử 11.000.000đ để đánh bạc. S làm cái liên tục từ 13 giờ 30 phút cho đến 14 giờ 30 phút cùng ngày thì bị phát hiện bắt quả tang. Khi bị bắt, S đã thua 5.000.000đ, còn 6.000.000đ vứt hết xuống chiếu bạc bị tạm giữ cùng với số tiền thu trên chiếu bạc.

- Phạm Trần Minh T2: Tham gia đánh bạc từ 13 giờ 30 phút ngày 16/01/2019 và sử dụng 3.000.000đ để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang đã thắng 1.000.000đ, tổng cộng là 4000.000đ đang để trong người và bị tạm giữ.

- Dư Thiện N1: Tham gia đánh bạc từ 13 giờ 30 phút ngày 16/01/2019 và sử dụng 700.000đ để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang N1 thắng 1.500.000đ, tổng cộng là 2.200.000đ đang để trong người và bị tạm giữ.

- Trần Thanh T3: Đem theo 2.800.000đ, sử dụng 1.000.000đ để đánh bạc từ lúc 13 giờ ngày 16/01/2019. Khi bị bắt quả tang đã bị thua 400.000đ. Bị tạm giữ trong người 2.400.000đ, trong đó có 600.000đ dùng để đánh bạc, 1.800.000đ không liên quan đến việc đánh bạc.

- Bùi Vi N2: Đem theo 6.390.000đ, sử dụng 700.000đ để đánh bạc. N2 bắt đầu đánh bạc từ lúc 14 giờ ngày 16/01/2019, khi bị bắt đã thua 700.000đ, còn lại 5.690.000đ đang để trong người và bị tạm giữ, số tiền này không liên quan đến việc đánh bạc.

- Phạm Duy K: Tham gia đánh bạc từ lúc 14 giờ ngày 16/01/2019 và sử dụng 500.000đ để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang đã thua hết 500.000đ.

- Nguyễn Hữu T4: Đem theo 7.800.000đ, sử dụng 300.000đ để đánh bạc. T4 bắt đầu đánh bạc từ lúc 14 giờ ngày 16/01/2019 và thua 300.000đ. Khi bị bắt thu giữ 7.500.000đ số tiền này không liên quan đến đánh bạc.

Trần Văn S, Võ Minh T1, Dư Thiện N1, Bùi Vi N2, Phạm Trần Minh T2, Nguyễn Hữu T4, Phạm Duy K, Trần Thanh T3 tham gia đánh bạc đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, thì bị Công an thành phố Biên Hòa phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền dùng vào việc đánh bạc 22.500.000đ.

* Vật chứng thu giữ liên quan đến việc phạm tội:

- Một bộ tài xỉu gồm: 01 chén nhựa, 01 đĩa nhựa, 03 hột xí ngầu các bị can sử dụng để đánh bạc.

- 29.400.000đ (Hai mươi chín triệu bốn trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc. Trong đó:

+ Thu giữ trên chiếu bạc 22.500.000đ (Hai mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng)

+ Thu giữ trên người các con bạc số tiền dùng để đánh bạc: 6.900.000đ (Sáu triệu chín trăm nghìn đồng). Gồm: Dư Thiện N1 2.200.000đ (Hai triệu hai trăm nghìn đồng); Phạm Trần Minh T2: 4.000.000đ (Bốn triệu đồng); Trần Thanh T3: 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng); Võ Minh T1: 100.000đ (Một trăm nghìn đồng).

* Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa hiện còn tạm giữ tài sản không liên quan đến vụ án gồm:

- 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) của Trần Thanh T3.

*Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu giữ và giao trả cho chủ sở hữu các tài sản không liên quan đến vụ án gồm:

- Trần Văn S: 01 điện thoại di động hiệu Nokia.

- Nguyễn Hữu T4: 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng); 01 điện thoại Oppo F9.

- Võ Minh T1: 01 điện thoại Iphone 5.

- Dư Thiện N1: 01 điện thoại Mobistas.

- Phạm Trần Minh T2: 01 điện thoại Iphone 6S (Bút lục 194).

- Trần Thanh T3: 01 điện thoại Nokia 203.

- Phạm Duy K: 01 điện thoại Samsung.

- Bùi Vi N2: 5.690.000đ (Năm triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng), 01 điện thoại Samsung A6+ - 01 điện thoại di động Nokia, Imeil: 3573300084401389 và 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) cho Nguyễn Đức H.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, Imeil: 352808091934711 cho Nguyễn Quang P.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt các bị cáo:

- Trần Văn S với mức án từ 35.000.000đ đến 40.000.0000đ.

- Võ Minh T1 với mức án từ 25.000.000đ đến 30.000.0000đ.

- Phạm Trần Minh T2 với mức án từ 25.000.000đ đến 30.000.000đ.

- Dư Thiện N1 với mức án từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

- Trần Thanh T3 với mức án từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

- Bùi Vi N2 với mức án từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

- Phạm Duy K với mức án từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

- Nguyễn Hữu T4 với mức án từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tuyên:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 29.400.000đ (Hai mươi chín triệu bốn trăm nghìn đồng) sử dụng vào việc đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy một bộ tài xỉu gồm: 01 chén nhựa, 01 đĩa nhựa, 03 hột Xí ngầu là công cụ mà các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) của Trần Thanh T3 để đảm bảo thi hành án.

Ý kiến của các bị cáo: Các bị cáo không phát biểu tranh luận và không tham gia bào chữa.

Trong phần phát biểu lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và hứa không tái phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể: Vào ngày 16/01/2019, tại đoạn đường nội bộ thuộc khu phố Đ, phường H, thành phố Biên Hòa, Võ Minh T1 và Trần Văn S thay nhau làm cái đánh bạc với Nguyễn Hữu T4, Dư Thiện N1, Trần Thanh T3, Phạm Duy K, Bùi Vi N2, Phạm Trần Minh T2 và một số đối tượng (Chưa rõ lai lịch) thắng thua bằng tiền dưới hình thức lắc “Xí ngầu” với số tiền dùng vào việc đánh bạc là 29.400.000đ (Hai mươi chín triệu bốn trăm nghìn đồng) thì bị phát hiện bắt quả tang.

[3] Đối chiếu lời khai của các bị cáo tại phiên tòa với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra thu thập, nhận thấy hành vi của Võ Minh T1 và Trần Văn S thay nhau làm cái lắc “Xí ngầu” thắng, thua bằng tiền với Nguyễn Hữu T4, Dư Thiện N1, Trần Thanh T3, Phạm Duy K, Bùi Vi N2, Phạm Trần Minh T2 và một số đối tượng (Chưa rõ lai lịch) với tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 29.400.000đ đã phạm vào tội "Đánh bạc" được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng đã viện dẫn và truy tố là có căn cứ.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, là nguyên nhân chính gây ra những loại tệ nạn và tội phạm khác, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, không có người rủ rê, lôi kéo. Tuy nhiên xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo để áp dụng một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Cụ thể: Cả 08 bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Các bị cáo Võ Minh T1, Dư Thiện N1, Trần Thanh T3, Bùi Vi N2, Phạm Duy K và Nguyễn Hữu T4 phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng . Trong số 08 bị cáo thì các bị cáo Trần Văn S và Võ Minh T1 với vai trò là những người thay nhau làm cái lắc “Xí ngầu” để những người chơi bạc đặt cược thắng thua bằng tiền và có số tiền sử dụng vào việc đánh bạc lớn. Do đó, hình phạt áp dụng đối với các bị cáo Trần Văn S và Võ Minh T1 cao hơn đối với các bị cáo còn lại.

[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải. Các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng, quá trình được tại ngoại chấp hành nghiêm quy định của pháp luật nên xét thấy không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà phạt tiền đối với các bị cáo là đủ nghiêm.

[6] Đối với các đối tượng (chưa rõ lai lịch) có hành vi đánh bạc đã tẩu thoát, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh truy tìm đối tượng, xử lý sau là phù hợp.

[7] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự buộc:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 29.400.000đ (Hai mươi chín triệu bốn trăm nghìn đồng) sử dụng vào việc đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy một bộ tài xỉu gồm: 01 chén nhựa, 01 đĩa nhựa, 03 hột Xí ngầu là công cụ mà các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) của Trần Thanh T3 để đảm bảo thi hành án.

[8] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn S, Võ Minh T1, Phạm Trần Minh T2, Dư Thiện N1, Trần Thanh T3, Bùi Vi N2, Phạm Duy K và Nguyễn Hữu T4 phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt:

- Trần Văn S 35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng).

- Võ Minh T1 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng).

- Phạm Trần Minh T2 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng).

- Dư Thiện N1 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

- Trần Thanh T3 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

- Bùi Vi N2 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

- Phạm Duy K 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

- Nguyễn Hữu T4 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự buộc:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 29.400.000đ (Hai mươi chín triệu bốn trăm nghìn đồng) sử dụng vào việc đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy một bộ tài xỉu gồm: 01 chén nhựa, 01 đĩa nhựa, 03 hột Xí ngầu là công cụ mà các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) của Trần Thanh T3 để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21/11/2019 và biên lai thu tiền ngày 21/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 628/2019/HS-ST

Số hiệu:628/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về