Bản án về tội đánh bạc số 59/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐỐP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 59/2022/HS-ST NGÀY 24/08/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 56/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vương Minh Q, sinh năm 1998 tại B; Tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; HKTT: Ấp 2, xã T, huyện B, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Làm nông; họ và tên cha: Vương Minh T, sinh năm: 1960; họ và tên mẹ: Nguyễn Thị N, sinh năm: 1963; Bị cáo có 03 anh chị, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1993. Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo được tại ngoại – có mặt

2. Họ và tên: Hoàng Chí H, sinh năm 1997, tại tỉnh B; Tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; HKTT: Ấp 2, xã T, huyện B, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Làm nông; họ và tên cha: Hoàng Chí H; sinh năm: 1966; họ và tên mẹ: Lê Thị N, sinh năm: 1965; Bị cáo có 02 anh em, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1998; bị cáo chưa có vợ con; Tiền sự, Tiền án: Không; Bị cáo được tại ngoại– có mặt.

3. Họ và tên: Nguyễn Thái N, sinh năm 1997, tại tỉnh T; Tên gọi khác:

Không; giới tính: Nam; HKTT: Ấp 7, xã T, huyện B, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Làm nông;

họ và tên cha: Nguyễn Văn T, sinh năm: 1964; họ và tên mẹ Lâm Thị B, sinh năm: 1964; Bị cáo có 01 người chị sinh năm 1991; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, Tiền sự:

Không; Bị cáo được tại ngoại – có mặt.

4. Họ và tên: Đỗ Thành Đ, sinh năm 1992, tại tỉnh B; Tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; HKTT: Ấp , thị trấn T, huyện B, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học vấn: Đại học; Nghề nghiệp: Nhân viên Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện B; họ và tên cha: Đỗ Gia T, sinh năm: 1954; họ và tên mẹ Nguyễn Thị M, sinh năm: 1956; Bị cáo có 02 người chị, lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 1983; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo được tại ngoại – có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Lê Thị N, sinh năm: 1965; địa chỉ: ấp 2, xã T, huyện B, tỉnh B. Vắng mặt + Nguyễn Xuân T, sinh năm: 1997; địa chỉ: KP. T, TT. , huyện B, tỉnh B.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 13/5/2022, Vương Minh Q rủ bạn là Đỗ Thành Đ đến Văn phòng kinh doanh bất động sản T ở khu phố T, TT. T, huyện B, tỉnh B thì gặp Hoàng Chí H, Nguyễn Thái N. Trong lúc ngồi nói chuyện, Q thấy trên bàn làm việc có bộ bài tây loại 52 lá nên rủ N, H, Đ đánh bài Xì dách ăn tiền. Cách thức chơi mỗi ván mỗi người đặt từ 10 đến 50 nghìn đồng, mỗi người thay nhau làm cái ba ván, người làm cái chia cho 04 người, mỗi người 02 lá để so sánh giữa người làm cái và người chơi để ăn thua số tiền đặt cược nếu người chơi hoặc người làm cái có hai lá bài “A” thì gọi là xì bàn là lớn nhất nếu có 1 lá bài A và 1 lá bài 10 hoặc lá bài tây thì gọi là xì dách, lớn thứ nhì. Căn cứ tổng điểm của 02 lá bài để xem có rút thêm lá bài nữa không, nếu tổng điểm nhỏ hơn 16 thì người chơi được rút từ 1 đến 3 lá bài sao cho tổng điểm bằng hoặc nhỏ hơn 21, nếu người nào rút được 5 lá bài mà tổng điểm nhỏ hơn hoăc bằng 21 là ngũ linh là lớn thứ 3, nếu người nào rút tổng điểm từ 28 điểm trở lên thì đền làng tức người chơi phải chung tiền tương ứng với số tiền người còn lại đã cược, riêng người cầm cái chỉ cần tổng điểm 15 điểm trở lên là có thể xét bài 3 người chơi còn lại.

Q, Đ, N, H chơi đến 23 giờ 30 phút thì bị công an thị trấn t, huyện B bắt quả tang thu giữ trên chiếu bạc 6.300.000đ, thu giữ trên người Nguyễn Thái N 1.500.000đ, thu giữ trên người của Vương Minh Q 2.800.000đ. Điều tra xác đinh được Nguyễn Thái N mang theo 2.000.000đ và sử dụng 500.000đ để đánh bạc và thắng 500.000đ; Đỗ Thành Đ mang theo 2.600.000đ và sử dụng để đánh bạc, Đ thua 300.000đ; Vương Minh Q đem theo 3.500.000đ và sử dụng 700.000đ để đánh bạc; Hoàng Chí H đem theo 2.500.000đ sử dụng để đánh bạc và thua 200.000đ. Tổng số tiền Q, H, N và Đ dùng để đánh bạc là 6.300.000đ.

Cáo trạng số: 49/CTr-VKS ngày 03 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa, sau khi xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa vẫn khẳng định bị cáo có hành vi như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vương Minh Q, Nguyễn Thái N, Hoàng Chí H, Đỗ Thành Đ phạm tội” đánh bạc” và đề nghị áp dụng:

Khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điều 17, điều 35 Bộ luật hình sự;

Đề xuất hình phạt đối với bị cáo:

Vương Minh Q từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ. Nguyễn Thái N từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

Đỗ Thành Đ từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

Hoàng Chí H từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

Về vật chứng: Vẫn giữ nguyên như nội dung bản cáo trạng.

Các bị cáo không tham gia tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đ, tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 13/5/2022, Công an thị trấn T, huyện B, tỉnh B bắt quả tang Vương Minh Q, Hoàng Chí H, Nguyễn Thái N, Đỗ Thành Đ có hành vi đánh bài xì dách thắng thua bằng tiền tại văn phòng kinh doanh bất động sản T thưộc khu phố T, thị trấn T, huyện B. Thu giữ trên chiếu bạc 6.300.000đ, trên người của Nguyễn Thái N 1.500.000đ, trên người của Vương Minh Q 2.800.000đ và điện thoại xe mô tô của những người tham gia đánh bạc.

Hình thức đánh bạc bằng cách: Mỗi người đặt cược từ 10 nghìn đến 50 nghìn đồng, bốn người thay nhau làm cái mỗi lần ba ván, người làm cái chia cho 04 người, mỗi người 02 lá để so sánh giữa người làm cái và người chơi để ăn thua số tiền đặt cược nếu người chơi hoặc người làm cái có hai lá bài “A” thì gọi là “xì bàn” là lớn nhất nếu có 1 lá bài A và 1 lá bài 10 hoặc lá bài tây thì gọi là “xì dách” lớn thứ nhì và căn cứ tổng điểm của 02 lá bài để xem có rút thêm lá bài nữa không, nếu tổng điểm nhỏ hơn 16 thì người chơi được rút từ 1 đến 3 lá bài sao cho tổng điểm bằng hoặc nhỏ hơn 21, nếu người nào rút được 5 lá bài mà tổng điểm nhỏ hơn hoăc bằng 21 là “ngũ linh” là lớn thứ 3, nếu người nào rút tổng điểm từ 28 điểm trở lên thì đền làng tức người chơi phải chung tiền tương ứng với số tiền người còn lại đã cược, riêng người cầm cái chỉ cần tổng điểm 15 điểm trở lên là có thể xét bài 3 người chơi còn lại.

Quá trình điều tra xác định: Nguyễn Thái N mang theo 2.000.000đ và sử dụng 500.000đ để đánh bạc và thắng 500.000đ; Đỗ Thành Đ mang theo 2.600.000đ và sử dụng để đánh bạc, Đ thua 300.000đ; Vương Minh Q đem theo 3.500.000đ và sử dụng 700.000đ để đánh bạc; Hoàng Chí H đem theo 2.500.000đ sử dụng để đánh bạc và thua 200.000đ. Tổng số tiền Quý, Hưng, Nguyên và Định dùng để đánh bạc là 6.300.000đ.

Hành vi đánh bài được thua bằng tiền của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” được quy định tại Điều 321 của Bộ luật hình sự. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; xâm hại trật tự công cộng, ảnh hưởng đến nếp sống văn minh, gây mất trật tự trị an tại địa phương, từ hành vi đánh bạc nảy sinh ra các loại tội phạm khác, để lại nhiều hệ lụy cho gia đình và xã hội. Các bị cáo đều đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bài được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật, nhưng muốn có tiền hưởng thụ nhanh chóng và sát phạt nhau các bị cáo đã cố ý thực hiện tội phạm, tổng số tiền của các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là: 6.300.000đ. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ và bản luận tội của Kiểm sát viên truy tố và luận tội các bị cáo về tội đánh bạc quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

Đây là vụ án đồng phạm, do 04 bị cáo cùng cố ý thực hiện tội phạm, các bị cáo đều là người thực hành tội phạm, không có sự bàn bạc, phân công vai trò từ trước, nên đây chỉ là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn, vai trò của các bị cáo trong vụ án là ngang nhau và số tiền các bị cáo sử dụng để tham gia đánh bạc là không lớn, người nhiều nhất 2.600.000 đồng, người ít nhất là 500.000 đồng, Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, cần xử phạt các bị cáo mức án tương xứng để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có.

[4] Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là không lớn, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: không đề cập xử lý.

[6] Về vật chứng:

Đối với số tiền 6.300.000đ các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 1.500.000đ của Nguyễn Thái N và số tiền 2.800.000đ của Vương Minh Q các bị cáo không sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với bộ bài tây 52 lá các bị cáo sử dụng để đánh bạc, hiện không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với những tài sản gồm: 01 căn cước công dân, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus, màu đen là tài sản hợp pháp của bị cáo Nguyễn Thái N; 01 căn cước công dân, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax số seri F2LC4JMN70K, 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu xanh đen biên số 93G1-xxxxx là tài sản hợp pháp của Vương Minh Q; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu xám đậm, 01 điện thoại di động Iphone 12 promax màu xám đậm, 01 xe mô tô hiệu Blade màu đỏ biển kiểm soát 93G1-xxxxx là tài sản hợp pháo của bị cáo Đỗ Thành Đ; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu xanh là tài sản hợp pháp của Hoàng Chí H. Đâty là những tài sản cá nhận của các bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tôi đánh bạc, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho các bị cáo là có căn cứ, phú hợp với quy định của pháp luật.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Vision màu đỏ đen, biển số 93G1-xxxxx là tài sản hợp pháp của bà Lê Thị N, bị cáo H mượn đi chơi, bà N không biết H chay xe đến công ty T và đánh bạc nên Cơ quan cách sát điều tra đã trả lại xe cho bà N là phù hợp với pháp luật.

[7] Xét quan điểm và đường lối xử lý của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tại phiên tòa về tội danh và hình phạt đối với bị cáo là phù hợp pháp luật, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử, nên cần chấp nhận.

[8] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Vương Minh Q, Hoàng Chí H, Đỗ Thành Đ, Nguyễn Thái N phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 35 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Vương Minh Q 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng). Xử phạt bị cáo Hoàng Chí H 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái N 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng). Xử phạt bị cáo Đỗ Thành Đ 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng).

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu sung quỹ nhà nước 6.300.000đ (Sáu triệu ba trăm nghìn đồng).

Tịch thu tiêu hủy: Đối với 52 lá bài “Tây” đã qua sử dụng;

Tạm giữ của bị cáo Nguyễn Thái N 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng);

bị cáo Vương Minh Q 2.800.000đ (hai triệu tám trăm nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án.

(Số vật chứng trên đã được giao nhận cho Chi cục thi hành án dân sự dân sự huyện Đ theo Biên bản giao nhận vật chứng số 0007784 ngày 08/8/2022).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức, thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 59/2022/HS-ST

Số hiệu:59/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về