TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KON TUM
BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 20/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 20 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố K, tỉnh K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Bùi Đoàn Th, sinh ngày 14 tháng 7 năm 1985 tại tỉnh K; nơi ĐKHKTT: Thôn 06, xã Đăk Px, huyện Đăk H, tỉnh K; chỗ ở hiện nay: Thôn 01, xã Đăk M, huyện Đăk H, tỉnh K; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Đoàn G và bà Phạm Thị S; vợ là Nguyễn Thị Ngọc Á (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 cho đến ngày 30/01/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”. Có mặt.
2. Trần Văn Th, sinh ngày 27 tháng 6 năm 1980 tại tỉnh Thanh H; nơi cư trú: Thôn Kon Tu 02, xã Đăk Bl, thành phố K, tỉnh K; nghề nghiệp: Làm nông; học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Tr và bà Trương Thị N; vợ là Hoàng Thị D và 03 con; tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 30/3/2021 Công an phường Quang Tr, thành phố K, tỉnh K xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”, với hình phạt tiền 1.500.000 đồng , bị cáo đã nộp phạt nhưng chưa được xóa tiền sự.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 cho đến ngày 30/01/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”. Có mặt.
3. Nguyễn Thanh T, sinh ngày 19 tháng 01 năm 1989 tại tỉnh Đăk L; nơi ĐKHKTT: Thôn 05, xã Khuê Ngọc Đ, huyện Kr, tỉnh Đăk L; chỗ ở hiện này: Số 85 Trần Nhân T, phường Thắng L, thành phố K, tỉnh K; nghề nghiệp: Nhân viên giao hàng; học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn X (đã chết) và bà Lê Thị Đ; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 cho đến ngày 30/01/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”. Có mặt.
4. Nguyễn Huy T, sinh ngày 21 tháng 02 năm 1975 tại tỉnh Phú Y; nơi cư trú: Số 71 Đào Duy T, phường Trường Ch, thành phố K, tỉnh K; nghề nghiệp: Làm nông; học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; vợ là Nguyễn Thị Hồng Nh và 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 cho đến ngày 30/01/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”. Có mặt.
- Ngươi làm chứng : Anh Phạm Ng, sinh năm 1985.Trú tại: Số 61/8 Trần Khát Ch, phường Duy T, thành phố K, tỉnh K. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 26/01/2022 (tức ngày 24/12/2021 âm lịch), Bùi Đoàn Th, Nguyễn Thanh T, Trần Văn Th1, Nguyễn Huy T1 đến uống cà phê tại quán vỉa hè trên đường Phan Huy Ch thuộc tổ 7, phường Thắng L, thành phố K. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Th rủ T, T1, Th1 đánh bạc ăn tiền dưới hình thức chơi “bầu, cua” thì tất cả đồng ý. Thành dùng điện thoại hiệu Samsung S7, màu vàng của mình tải ứng dụng “Bầu cua 2022” về và cầm cái cho tất cả cùng chơi.
Cách thức chơi “Bầu, cua” như sau: Khi Th mở ứng dụng “Bầu cua 2022” thì trên màn hình điện thoại hiện ra 03 quân vị hình hộp có 06 mặt, mỗi mặt có một hình ảnh bầu, cua, tôm, cá, gà, nai. Khi Th1 bấm nút “Xóc” thì các người chơi chọn đặt cược bầu, cua, tôm, cá, gà, nai với số tiền đặt cược cho mỗi con từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Khi người chơi đặt cược xong, Thành bấm nút “Mở” thì các quân vị sẽ xuất hiện hình ảnh quả bầu hoặc các con vật như cua, tôm, cá, gà, nai, ai đặt cược giống với hình ảnh hiện ra trên màn hình điện thoại thì người đó thắng số tiền tương ứng với số tiền đã đặt cược, nếu không thì thua số tiền đặt cược. Số tiền thắng sẽ được nhân lên tương ứng với số con vật hiện ra trên màn hình (ví dụ: người chơi đặt cược 50.000 đồng cho con cua, nếu nhà cái mở màn hình hiện ra 02 con cua thì người chơi sẽ thắng 100.000 đồng).
Tất cả đánh bạc đến 14 giờ cùng ngày, thì bị lực lượng Công an thành phố K bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc 10.790.000 đồng và chiếc điện thoại Samsung S7 của Bùi Đoàn Th. Quá trình điều tra xác định, tổng số tiền mà Th, T, Th1, T1 dùng đánh bạc là 13.740.000 đồng, trong đó Bùi Đoàn Th sử dụng 3.220.000 đồng, Nguyễn Thanh T sử dụng 8.200.000 đồng, Trần Văn Th1 sử dụng 1.020.000 đồng, Nguyễn Huy T1 sử dụng 1.300.000 đồng.
Cáo trạng số 36/CT-VKSTPKT ngày 25 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum truy tố các bị cáo Bùi Đoàn Th, Trần Văn Th1, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Huy T1 cùng về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017.
*Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh K giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
-Áp dụng khoản 1,3 Điều 321; Điều 17, Điều 36; điểm i, s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt:
+Bị cáo Bùi Đoàn Th từ 21 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ,
+Bị cáo Trần Văn Th1 từ 21 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ,
+Bị cáo Nguyễn Thanh T từ 18 đến 21 tháng cải tạo không giam giữ.
+Bị cáo Nguyễn Huy T1 từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ.
- Đề nghị Hội đồng xét xử: Phạt bổ sung bị cáo Bùi Đoàn Th và Trần Văn Th1, mỗi bị cáo 15.000.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Huy T1, mỗi bị cáo 10.000.000 đồng và khấu trừ một phần thu nhập của từng bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt.
- Vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định.
Ý kiến và lời nói sau cùng của các bị cáo:Các bị cáo không tự bào chữa cho hành vi phạm tội của của mình và không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT - Công an thành phố K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử toàn bộ vụ án, căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo Bùi Đoàn Th, Trần Văn Th1, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Huy T1 công nhận hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:
Trong khoảng thời gian từ 12 giờ 00 phút đến 14 giờ 00 phút ngày 26/01/2022, tại quán cà phê vỉa hè đường Phan Huy Ch, tổ 7, phường Thắng l, thành phố K, tỉnh Km, các bị cáo Bùi Đoàn Th, Trần Văn Th1, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Huy T1 cùng nhau đánh bạc trái phép dưới hình thức “bầu, cua” ăn tiền, trên ứng dụng điện thoại, thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 13.740.000 đồng. (trong đó: bị cáo Th sử dụng 3.220.000 đồng, bị cáo T sử dụng 8.200.000 đồng, bị cáo Th1 sử dụng 1.020.000 đồng, bị cáo T1 sử dụng 1.300.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo Bùi Đoàn Th là người rủ rê các bị cáo Trần Văn Th1, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Huy T1 cùng tham gia đánh bạc. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K, tỉnh K truy tố các bị cáo về tội “ Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Kon Tum nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, cần xử phạt các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo.
[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo; đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; các bị cáo là lao động chính trong gia đình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.
[5] Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Bùi Đoàn Th là người rủ các bị cáo Th1, T, T1 cùng tham gia đánh bạc, nhưng tại phiên tòa các bị cáo đều thừa nhận “Tất cả cùng nhau đánh bầu cua trong thời gian bị cáo T và bị cáoTh chờ xe về quê ăn tết”; tại thời điểm phạm tội, các bị cáo Th, T, T1 có nhân thân tốt, chưa từng vi phạm pháp luật; bị cáo Nguyễn Văn Th1 phạm tội khi đang có 01 tiền sự về hành vi “đánh bạc”, nhưng sử dụng số tiền đánh bạc ít nhất so với 4 bị cáo (1.020.000 đồng). Hành vi phạm tội của các bị cáo là ít nghiêm trọng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn; các bị cáo đều có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng; các bị cáo đều là lao động chính trong gia đình, vợ bị cáo Th1 thường xuyên đau ốm (có xác nhận của chính quyền địa phương). Do đó, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho các bị cáo cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, biết tôn trọng pháp luật và răn đe, phòng ngừa chung.
Trong giai đoạn điều tra, các bị cáo bị tạm giữ 04 ngày (từ ngày 26/01/2022 đến 30/01/2022) bằng 12 ngày cải tạo không giam giữ (cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ), được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định.
6] Về hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập: Tại phiên tòa, các bị cáo đều khai: Trước và sau khi phạm tội, công việc của mỗi bị cáo thu nhập bình quân từ 4.000.000 đến 5.000.000 đồng/tháng (bị cáo Th, T thu nhập từ công việc (giao hàng) cho công ty; bị cáo T1 thu nhập từ việc nuôi tôm, bị cáo Th1 thu nhập từ việc cạo mủ cao su). Căn cứ khoản 3 Điều 321 và khoản 3 Điều 36 của Bộ luật hình sự, phạt bổ sung mỗi bị cáo 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) và khấu trừ thu nhập để sung quỹ Nhà Nước mỗi bị cáo 300.000 đồng/tháng, tương ứng với thời gian các bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
[7] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ, tạm giữ: Số tiền trên chiếu bạc là 10.790.000 đồng; 01 điện thoại Samsung S7, màu vàng và số tiền 2.950.000 đồng của bị cáo Bùi Đoàn Th; 01 điện thoại Iphone 6 Plus; 01 xe mô tô Yamaha Jupiter BKS 82B1-836.62 và số tiền 6.000.000 đồng của bị cáoTrần Văn Th1; 01 điện thoại Iphone màu nâu đồng và số tiền 2.500.000 đồng của bị cáo Nguyễn Huy T1; 01 điện thoại Oppo A3 màu đen của bị cáo Nguyễn Thanh T. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K xác định điện thoại, xe mô tô và tiền của bị cáo Th1, T1,T không liên quan đến vụ án nên đã trả lại là có cơ sở.
Đối với 01 điện thoại Samsung S7 màn hình cảm ứng, màu vàng (đã qua sử dụng), mặt kính trước và sau bị bể vỡ của bị cáo Bùi Đoàn Th. Đây là công cụ dùng vào việc đánh bạc nên tịch thu sung,nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với số tiền 10.790.000 đồng thu trên chiếu bạc và số tiền 2.950.000 đồng thu giữ trong người bị cáo Th. Đây là số tiền các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung, nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[9] Về án phí: Các bị cáo Bùi Đoàn Th, Trần Văn Th1, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Huy T1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Căn cứ khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Đoàn Th, Trần Văn Th1, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Huy T1 phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1,3 Điều 321;Điều 17, khoản 1, 3 Điều 36; các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
+ Xử phạt bị cáo Bùi Đoàn Th 21 (Hai mươi mốt) tháng cải tạo không giam giữ, trừ 12 ngày. Bị cáo Th còn phải chấp hành 20 (Hai mươi) tháng 18 (Mười tám) ngày. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Th cho Ủy ban nhân dân xã Đăk Px, huyện Đăk H, tỉnh K, giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo tại địa phương.
+ Xử phạt bị cáo Trần Văn Th1 21 (Hai mươi mốt) tháng cải tạo không giam giữ, trừ 12 ngày. Bị cáo Th1 còn phải chấp hành 20 (Hai mươi) tháng 18 (Mười tám) ngày. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Thức cho Ủy ban nhân dân xã ĐăkBl, thành phố K, tỉnh K, giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo tại địa phương.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ, trừ 12 ngày. Bị cáo T còn phải chấp hành 17 (Mười bảy) tháng 18 (Mười tám) ngày. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo T cho Ủy ban nhân dân xã Khuê Ngọc Đ, huyện Krông B, tỉnh Đăk L, giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo tại địa phương.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy T1 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ, trừ 12 ngày. Bị cáo T1 còn phải chấp hành 14 (Mười bốn) tháng 18 (Mười tám) ngày. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo T cho Ủy ban nhân dân phường Trường Ch, thành phố K, tỉnh K, giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo tại địa phương.
Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát bị cáo thực hiện theo khoản 3 Điều 100 Luật thi hành án hình sự.
3. Về hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập: Căn cứ khoản 3 Điều 321; khoản 3 Điều 36 Bộ luật hình sự. Phạt bổ sung mỗi bị cáo (Bùi Đoàn Th, Trần Văn Th1, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Huy T1) 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) và khấu trừ thu nhập để nộp Ngân sách Nhà nước, mỗi bị cáo 300.000 đồng/tháng, tương ứng với thời gian các bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu sung, nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại Samsung S7 màn hình cảm ứng, màu vàng (đã qua sử dụng), mặt kính trước và sau bị bể vỡ (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/4/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K, tỉnh K và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố K, tỉnh K) và số tiền 13.740.000 đồng (Mười ba triệu bảy trăm bốn mươi nghìn đồng), số tiền này đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K, tỉnh K nộp vào Kho bạc Nhà nước tỉnh K ngày 27/4/2022 tại tài khoản số: 3949.0.1047677.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum).
5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Các bị cáo Bùi Đoàn Th, Trần Văn Th1, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Huy T1, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).
6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (20 - 6 - 2022), các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo trình tự phúc thẩm./
Bản án về tội đánh bạc số 55/2022/HS-ST
Số hiệu: | 55/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về