Bản án về tội đánh bạc số 40/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 40/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2022/TLST-HS, ngày 18 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2022/QĐXXST-HS, ngày 08 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2022/HSST-QĐ ngày 20/6/2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 11/10/1964, tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi cư trú: Thôn Q, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang;

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Tày; giới tính:

Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Nguyễn Văn Ph và bà Hoàng Thị T1 (đều đã chết); Vợ: Chu Thị H, sinh năm 1969;

Anh chị, em ruột: Có 07 người, bị cáo là thứ 2.

Con: Có 03 con, lớn sinh năm 1992 (đã chết), nhỏ sinh năm 1998; Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 16/8/2021, bị Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc, phạt tiền 1.200.000 đồng (chấp hành xong ngày 20/8/2021).

Nhân thân:

- Ngày 24/5/2011, bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 05 tháng tù về hành vi đánh bạc;

- Ngày 06/9/2011, bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 06 tháng tù về hành vi đánh bạc.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

2. Họ và tên: Lao Văn S, tên gọi khác: Không, sinh ngày 16/02/1968, tại huyện H, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi cư trú: Thôn Th, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang;

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 3/10; quốc tịch: Việt Nam;

dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; giới tính: Nam.

Con ông Lao Văn T2 và bà Công Thị Ch (đều đã chết); Anh chị, em ruột: Có 07 người, bị cáo là thứ 3;

Vợ: Lương Thị Đ, sinh năm 1968;

Con: Có 02 con, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 1993; Tiền án: không.

Tiền sự: Ngày 16/8/2021, bị Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc, phạt tiền 1.200.000 đồng (chấp hành xong ngày 20/8/2021).

Nhân thân:

- Ngày 26/6/2013, bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về hành vi đánh bạc.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

3. Họ và tên: Chu Đức H1, tên gọi khác: Không, sinh ngày 04/5/1981, tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi cư trú: Thôn K, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không.

Con ông Chu Đức V (đã chết) và bà Công Thị T3, sinh năm 1947;

Anh chị, em ruột: Có 08 người, bị cáo là thứ 6; Vợ : Đặng Thị T4, sinh năm 1983 (đã ly hôn); Vợ : Phạm Thị L, sinh năm 1984;

Con: Có 03 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 71 ngày 12/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 01 năm cải tạo không giam giữ, phạt tiền 3.000.000 đồng về hành vi đánh bạc (chưa chấp hành xong hình phạt tiền).

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Đình T, sinh năm 2000;

Địa chỉ: Thôn Q, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt(có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Ông Hoàng Thanh B, sinh năm 1969;

Địa chỉ: Thôn B, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt(có đơn xin xét xử vắng mặt).

3. Anh Quan Văn Th, sinh năm 2001;

Địa chỉ: Thôn K, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt(có đơn xin xét xử vắng mặt).

4. Anh Triệu Văn H, sinh năm 1984;

Địa chỉ: Thôn K, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt(có đơn xin xét xử vắng mặt).

5. Anh Triệu Văn H, sinh năm 1978;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Nh, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt(có đơn xin xét xử vắng mặt).

6. Anh Bế Văn N, sinh năm 1981;

Địa chỉ: Thôn Th, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt(có đơn xin xét xử vắng mặt).

7. Anh Hoàng Vĩnh D, sinh năm 1996;

Địa chỉ: Thôn Tr, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt(có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người làm chứng:

1. Ông Vũ Tiến Th, sinh năm 1962;

Địa chỉ: Thôn Q, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt(có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Anh Vi Văn L, sinh năm 2000;

Địa chỉ: Thôn Tr, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt(có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 29/01/2022, Nguyễn Văn T, sinh năm 1964, trú tại thôn Q, xã P, huyện H đang ở nhà thì Nguyễn Đình T1, sinh năm 2000; Vũ Tiến Th, sinh năm 1962, trú cùng thôn Q; Hoàng Vĩnh D, sinh năm 1996; Vi Văn L, sinh năm 2000, cùng trú tại thôn Tr, xã P, huyện H; Lao Văn S, sinh năm 1968, trú tại thôn Th, xã P, huyện H và Hoàng Thanh B, sinh năm 1969, trú tại thôn B, xã P, huyện H đến chơi. Khoảng 20 giờ 40 phút T1 rủ Nguyễn Văn T, Hoàng Vĩnh D, Lao Văn S, Hoàng Thanh B và Vũ Tiến Th đánh bạc, Tôn nói “làm tý đi các chú”, ý là rủ đánh bạc, T nói “làm thì làm”. Sau đó T1 vào bếp của gia đình T lấy bát, đĩa và cắt 04 quân bạc bằng tre, bôi đen một mặt làm dụng cụ đánh bạc, rồi những người nêu trên cùng di chuyển từ nhà của T đến bãi đất trống thuộc thôn Th, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang để đánh bạc. Khoảng 21 giờ cùng ngày Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T1, Hoàng Vĩnh D, Lao Văn S, Hoàng Thanh B bắt đầu đánh bạc (Vũ Tiến Th và Vi Văn Lchỉ xem không tham gia cá cược), quá trình đánh bạc có Quan Văn Th, sinh năm 2001, Triệu Văn H, sinh năm 1984, Chu Đức H, sinh năm 1981, cùng trú tại thôn K, xã P, huyện H; Triệu Văn H1, sinh năm 1978, trú tại thôn Đ, xã Nh, huyện H; Bế Văn N, sinh năm 1981, trú tại thôn Th, xã P, huyện H biết và đến tham gia đánh bạc. Cách thức đánh bạc là người cầm cái cho 04 quân bạc lên đĩa, úp bát vào xóc đi xóc lại sau đó đặt xuống để cho những người tham gia đánh bạc đoán chẵn, lẻ, sau đó người cầm cái mở bát ra nếu là 02 hoặc 04 quân đen hay trắng thì người chơi đặt cược ở cửa chẵn sẽ thắng, nếu có 01 quân đen, 03 quân trắng hoặc ngược lại thì người chơi đặt cửa lẻ thắng, tỉ lệ thắng thua là 1:1, những người đánh bạc thống nhất đặt cược thấp nhất mỗi ván là 10.000 đồng, cao nhất tùy người chơi, khi đánh bạc S là người xóc cái. Tất cả 10 người gồm: Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T1, Hoàng Vĩnh D, Lao Văn S, Hoàng Thanh B, Quan Văn Th, Triệu Văn H1, Chu Đức H, Triệu Văn H2, Bế Văn N đánh bạc. Đến 21 giờ 50 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an huyện H phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 3.850.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định số tiền các bị cáo và các đối tượng dùng vào việc đánh bạc như sau:

Nguyễn Văn T sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, không xác định được thắng, thua; Lao Văn Sơn sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, không xác định được thắng, thua; Chu Đức H sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, bị thua hết tiền; Quan Văn Th sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, do thắng có tổng số tiền 1.350.000 đồng; Triệu Văn H1 sử dụng 420.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, không xác định được thắng, thua; Triệu Văn H2 sử dụng 270.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, do thua bạc khi bị bắt còn 20.000 đồng; Hoàng Vĩnh D sử dụng 200.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, bị thua hết tiền; Bế Văn Nsử dụng 160.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, bị thua hết tiền; Nguyễn Đình T1 sử dụng 130.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, bị thua hết tiền; Hoàng Thanh B sử dụng 100.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, bị thua hết tiền.

Tổng số tiền thu giữ tại chiếu bạc là 3.850.000đ (Ba triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số 37/CT-VKSHY, ngày 17/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang truy tố đối với Nguyễn Văn T, Lao Văn S, Chu Đức H về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo theo tội danh, điều luật và đề nghị: Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn T, Lao Văn S, Chu Đức H phạm tội Đánh bạc.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ (06) tháng đến (09) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt: Bị cáo Lao Văn S từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt: Bị cáo Chu Đức H từ 06 (sáu) tháng đến 09(chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

Giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng, buộc các bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bán án theo quy định.

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn T, Lao Văn S, Chu Đức H khai nhận về hành vi phạm tội phù hợp với nội dung cáo trạng và không có ý kiến tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 21 giờ đến 21 giờ 50 phút ngày 29/01/2022, tại bãi đất trống thuộc thôn Th, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, các bị cáo Nguyễn Văn T, Lao Văn Sơn, Chu Đức H có hành vi đánh bạc bằng hình thức “xóc đĩa”, cá cược được thua bằng tiền Việt Nam đồng cùng với các đối tượng Nguyễn Đình T1, Hoàng Vĩnh D, Hoàng Thanh B, Quan Văn Th, Triệu Văn H1, Triệu Văn H2, Bế Văn N, bị tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H phát hiện lập biên bản. Tổng số tiền thu giữ trên chiếu bạc là 3.850.000 đồng (Ba triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng). Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang truy tố các bị cáo về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do ham chơi, vì mục đích vụ lợi các bị cáo đã thực hiện hành vi đánh bạc, do vậy cần xử phạt mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo, như vậy mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người tốt và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Về tính chất, mức độ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong vụ án này các bị cáo thực hiện hành vi đánh bạc mang tính chất đồng phạm giản đơn. Trong đó, bị cáo Nguyễn Văn T sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, không xác định được thắng thua. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền đánh bạc không lớn (500.000đ), gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo của xã P năm 2022.

Bị cáo Lao Văn S sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, không xác định được thắng thua. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền đánh không lớn (500.000đ).

Bị cáo Chu Đức H sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, tham gia cá cược bạc nhiều ván, bị thua hết tiền. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền đánh không lớn (500.000đ).

Xét tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo thấy rằng: Mặc dù các bị cáo Nguyễn Văn T, Lao Văn S có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc, bị cáo Chu Đức H có 01 tiền án về tội đánh bạc, nhưng đây là yếu tố định tội (số tiền đánh bạc dưới 5.000.000 đồng). Căn cứ điểm b khoản 2 Nghị quyết số 01/2022/NQ- HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Thấy rằng, quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo xuất trình đơn xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo cải tạo tại địa phương có xác nhận bảo lãnh của chính quyền địa phương xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng cho các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng, các bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng và xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cho các bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người tốt và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nghề nghiệp chính là làm ruộng và lao động tự do, không có tài sản gì có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

[5] Về vật chứng: Đối với 04 quân bạc bằng đóm tre được bôi đen một mặt, 01 bát con bằng sứ màu trắng, 01 địa sứ màu trắng, đây là công cụ sử dụng vào việc đánh bạc, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 3.850.000đồng thu giữ tại chiếu bạc, đây là số tiền sử dụng vào việc đánh bạc, nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[6] Đối với hành vi đánh bạc của Nguyễn Đình T1, Hoàng Vĩnh D, Hoàng Thanh B, Quan Văn Th, Triệu Văn H1, Triệu Văn H2, Bế Văn N. Do tổng số tiền trong vụ đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, các đối tượng trên chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa bị kết án về tội Đánh bạc và tội Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Ngày 28/02/2022, Công an huyện H đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 90, 91, 92, 93, 94, 95 và 96 bằng hình thức phạt tiền, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; ghi nhận các bị cáo đã nộp số tiền án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000đ theo các biên lai thu tiền số 0002098, 00002099, 0002100 ngày 22/6/2022 nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên; các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, 58; Điều 65 Bộ luật hình sự:

- Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn T, Lao Văn S, Chu Đức H phạm tội Đánh bạc.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 02 (hai) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/6/2022).

- Xử phạt: Bị cáo Lao Văn S 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 02 (hai) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/6/2022).

- Xử phạt: Bị cáo Chu Đức H 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01(một) năm 02 (hai) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/6/2022).

Giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, 92 Luật thi hành án hình sự.

2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 04 quân bạc bằng đóm tre được bôi đen một mặt, 01 bát con bằng sứ màu trắng, 01 địa sứ màu trắng. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên ngày 19 tháng 5 năm 2022.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 3.850.000đồng (Ba triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng). Số tiền trên hiện đang gửi tại tài khoản số 3949.0.1064845.000000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Hàm Yên (theo giấy ủy nhiệm chi ngày 23/5/2022).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Buộc các bị cáo mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền đã nộp là 200.000 đồng theo biên lai số 0002098, 00002099, 0002100 ngày 22/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên. Ghi nhận các bị cáo đã nộp xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được hay niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 40/2022/HS-ST

Số hiệu:40/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về