Bản án về tội đánh bạc số 35/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 35/2020/HS-ST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/ ĐỖ THỊ THANH H; sinh năm 1983; nơi sinh: Tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Xóm KT, thôn TĐ, xã TK, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Thợ làm tóc; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ C và bà Nguyễn Thị D; chồng: Phan Thanh T và 03 con, lớn sinh năm 2004 và nhỏ sinh năm 2006; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 13/6/2019, bị Chủ tịch UBND TP. Quảng Ngãi ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép” dưới hình thức xóc đĩa; đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

2/ CAO TRUNG Đ; sinh năm 1987; nơi sinh: Tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn CH II, xã TAT, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Trung A (chết) và bà Đặng Thị S; vợ: Đỗ Thị Mỹ H; sinh năm: 1992 và 02 con, lớn sinh năm 2014 và nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

3/ NGUYỄN ĐÌNH L; sinh năm 1983; nơi sinh: Tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú:

Thôn TN, xã TAT, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình T và bà Võ Thị T; vợ: Nguyễn Thị Thùy H, sinh năm 1989 và 03 con, lớn sinh năm 2011 và nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không, về nhân thân: Ngày 07/12/2000, bị Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường giáo dưỡng số 03. Thời hạn chấp hành 24 tháng và đã chấp hành xong về tại địa phương; đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

4/ TRẦN THỊ T; sinh năm 1989; nơi sinh: Tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn GH, xã TL, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn:

10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần H và bà Phạm Thị T; chồng: Nguyễn Quốc V, sinh năm 1987 và 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

5/ BÙI QUANG P; sinh năm 1994; nơi sinh: Tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn CH II, xã TAT, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Đức T và bà Nguyễn Thị Kim K; vợ: Đỗ Thị Thùy L; sinh năm: 1994 và 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

6/ ĐẶNG Đ; sinh năm 1987; nơi sinh: Tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn GH, xã TL, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Nhạc công; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng P và bà Đỗ Thị B; vợ: Trần Thị Bích T; sinh năm: 1992 và 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

7/ PHẠM HUY E; sinh năm 1984; nơi sinh: Tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn GH, xã TL, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Thợ xây dựng; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm H (chết) và bà Huỳnh Thị P (chết); vợ: Cao Thị Hồng H (H); sinh năm: 1984 và 02 con, lớn sinh năm 2008 và nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

8/ NGUYỄN ĐỨC T; sinh năm 1977; nơi sinh: Tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn CL, xã TK, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Thợ điện nước; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn K (chết) và bà Trần Thị N; vợ: Nguyễn Thị L; sinh năm: 1978 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Trần Thị T, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn ML, xã TK, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

- Bà Tạ Thị Thu S, sinh năm 1996, địa chỉ: Đội 4, xóm V, thôn TLT, xã TH, huyện ST, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

- Ông Phan Thanh H, sinh năm 1978, địa chỉ: Tổ 2, phường NC, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

- Bà Đỗ Thị Thùy L, sinh năm 1994, địa chỉ: Thôn CH 2, xã TAT, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, có mặt.

- Ông Nguyễn Quốc V, địa chỉ: Thôn KL, xã TL, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Trần Minh H, sinh năm 1957, địa chỉ: Thôn CH II, xã TAT, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 19/9/2019, Bùi Quang P liên hệ với Cao Trung Đ mượn nhà, địa chỉ: Thôn Cộng Hòa II, xã TAT, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi để đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền, Đình đồng ý. Sau khi được sự đồng ý của Đình thì Bùi Quang P, Nguyễn Đình L, Trần Thị T, Đặng Đ, Phạm Huy E, Đỗ Thị Thanh H, Nguyễn Đức T đến nhà của Đ đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền tại tầng 1 nhà của Đ. Tại đây, không có ai xóc cố định, các bị cáo thay nhau xóc và trong các ván bị cáo nào dở chén thì phải chung tiền thắng thua tại ván đó. Các bị cáo thỏa thuận với Đ sẽ đưa tiền xâu sau khi chơi xong (Tiền xâu ít hay nhiều là do các bị cáo góp lại đưa). Đang chơi thì bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi bắt quả tang. T thu tại chiếu bạc là 18.700.000 đồng. Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Quảng Ngãi xác định mức độ tham gia của các bị cáo, cụ thể:

- Bị cáo Nguyễn Đức T cầm xóc 08 đến 09 ván và thua số tiền 1.000.000 đồng. Số tiền T sử dụng để đánh bạc là 2.800.000 đồng.

- Bị cáo Nguyễn Đình L tham gia đặt cược 03 ván với tổng số tiền cá cược là 1.500.000 đồng và thua cả 03 ván với số tiền 1.500.000 đồng. Ngoài ra, bị cáo L còn cầm xóc 02 ván; ván thứ nhất không thắng không thua vì không dỡ chén, ván thứ 2 các con bạc đang đặt cược thì bị bắt quả tang. Số tiền bị cáo L dùng để đánh bạc là 1.500.000 đồng và đã thua số tiền này.

- Bị cáo Trần Thị T tham gia đặt cược 10 ván, mỗi ván đặt cược với số tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng và thua số tiền 3.000.000 đồng. Số tiền bị cáo T sử dụng để đánh bạc là 4.000.000 đồng, đã thua 3.000.000 đồng.

- Bị cáo Đặng Đ tham gia đặt cược 10 ván, mỗi ván đặt cược với số tiền từ 200.000 đồng đến 800.000 đồng và thua số tiền 4.200.000 đồng. Bị cáo sử dụng số tiền 4.900.000 đồng để đánh bạc, thua hết số tiền 4.200.000 đồng, còn lại số tiền 700.000 đồng bị tạm giữ.

- Bị cáo Bùi Quang P tham gia đặt cược 10 ván, mỗi ván đặt với số tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng, sau 10 ván bị cáo P không thua, không thắng. Số tiền P dùng để đánh bạc là 3.700.000 đồng.

- Bị cáo Đỗ Thị Thanh H tham gia đặt cược 01 ván với số tiền 100.000 đồng, chưa có kết quả thắng thua thì bị bắt quả tang. Số tiền bị cáo H dùng để đánh bạc là 100.000 đồng.

- Bị cáo Phạm Huy E tham gia đặt cược 06 ván, mỗi ván đặt cược từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng, sau 06 ván bị cáo E không thắng không thua. Số tiền bị cáo sử dụng để đánh bạc là 4.850.000 đồng.

Đối với Cao Trung Đ, ngày 17/9/2019, bị cáo còn cho bị cáo Bùi Quang P, Trần Thị T cùng nhiều đối tượng khác (Không xác định được nhân thân lai lịch) tham gia chơi đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền tại nhà của mình và nhận tiền xâu là 2.000.000 đồng.

Bản cáo trạng số: 25/CT-VKS ngày 28/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố Đỗ Thị Thanh H, Nguyễn Đình L, Trần Thị T, Đặng Đ, Bùi Quang P, Nguyễn Đức T, Phạm Huy E và Cao Trung Đ về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 321, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 (khoản 2 chỉ áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Đức T và Cao Trung Đ) Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt: Đỗ Thị Thanh H từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng, Nguyễn Đình L từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, Trần Thị T từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng, Đặng Đ từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng, Bùi Quang P từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng, Nguyễn Đức T từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, Phạm Huy E từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng và Cao Trung Đ từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng. Và đề nghị xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là: Bà Trần Thị T, bà Tạ Thị Thu S, ông Phan Thanh H, ông Nguyễn Quốc V; người làm chứng: Ông Trần Minh H đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng cơ quan điều tra đã làm việc trong quá trình điều tra nên việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại các Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo Đỗ Thị Thanh H, Nguyễn Đình L, Trần Thị T, Đặng Đ, Bùi Quang P, Nguyễn Đức T, Phạm Huy E và Cao Trung Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị cáo tại giai đoạn điều tra và tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng:

Các bị cáo Đỗ Thị Thanh H, Nguyễn Đình L, Trần Thị T, Bùi Quang P, Nguyễn Đức T, Phạm Huy E, Đặng Đ là công dân có đầy đủ sức khỏe và năng lực trách nhiệm hình sự. Các bị cáo nhận thức được việc đánh bạc dưới mọi hình thức thắng thua bằng tiền là vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Nhưng để thỏa mãn thú vui của bản thân và mục đích kiếm tiền một cách bất chính, ngày 19/9/2019, các bị cáo đã cùng tham gia đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa tại nhà Cao Trung Đ với tổng số tiền đánh bạc là 40.550.000 đồng. Trong đó số tiền đánh bạc trên sòng khi bắt quả tang là: 18.700.000 đồng.

Đối với bị cáo Cao Trung Đ nhận thức được việc sử dụng nhà mình để chứa bạc duới hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền là vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích muốn kiếm lời từ các con bạc nên ngày 17/9/2029, Đình cho Trần Thị T, Bùi Quang P và một số đối tượng khác (Không xác định lai lịch) để đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa, thu tiền xâu 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Tiếp đến, ngày 19/9/2019, sau khi được Bùi Quang P đặt vấn đề sử dụng nhà mình để đánh bạc thì Đ đồng ý với mục đích lấy tiền xâu từ con bạc. Tuy hành vi “Dùng nhà, chỗ ở của mình để chứa bạc” của Cao Trung Đ không đủ yếu tố cấu thành tội: “Gá bạc”, quy định tại Điều 322 – Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nhưng theo Khoản 2, Điều 2 - Nghị quyết số: 01/2010/NQ–HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn “Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc trường hợp chưa đến mức được hướng dẫn tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này, nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì tuy họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nhưng họ phải chịu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc”. Do đó hành vi của Cao Trung Đ có dấu hiệu đồng phạm với các bị cáo trên về hành vi “Đánh bạc”, quy định tại Điều 321 – Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Với tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án và qua kiểm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Đỗ Thị Thanh H, Nguyễn Đình L, Trần Thị T, Đặng Đ, Bùi Quang P, Nguyễn Đức T, Phạm Huy E và Cao Trung Đ đã phạm vào tội: “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1, Điều 321 - Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo cùng tham gia đánh bạc có khác nhau nên Hội đồng xét xử quyết định hình phạt cho từng bị cáo cũng khác nhau.

Do vậy, cần phải xử lý nghiêm minh các bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Tuy nhiên, các bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Ngoài ra, cha của Nguyễn Đức T và ông, bà nội của Cao Trung Đ có công với cách mạng nên được áp dụng thêm khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét thấy không cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, chỉ cần áp dụng hình phạt tiền cũng đủ cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[3] Các đối tượng có liên quan trong vụ án: Tạ Thị Thu S và Trần Thị Th có mặt tại nhà ông Cao Trung Đ khi các bị cáo bị bắt quả tang, nhưng S và T không tham gia đánh bạc tại sòng, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý những người này về hành vi đánh bạc.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 cái đĩa, 01 cái chén, 04 quân vị được cắt ra từ các lá bài Tây và 01 chiếc chiếu dùng để đánh bạc nên tịch thu, tiêu hủy.

- Số tiền 18.700.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc, đây là số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc, nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Số tiền 5.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung tạm giữ từ Đỗ Thị Thanh H. Đây là tài sản của Huyền, không liên quan đến hành vi đánh bạc. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Quảng Ngãi đã trả lại tài sản cho H.

- 01 xe môtô hiệu SH màu trắng, biển số: 76B1 – 421.12, Cơ quan điều tra xác định Nguyễn Đình L là người đứng tên chủ sở hữu và số tiền 15.800.000đồng, là tiền của L, không liên quan đến hành vi đánh bạc. Do đó, Cơ quan điều tra đã trả xe môtô hiệu SH màu trắng, biển số: 76B1–421.12 và số tiền trên cho Nguyễn Đình L.

- Số tiền 3.000.000 đồng tạm giữ từ Trần Thị T. Trong đó, xác định T sử dụng số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 1.000.000 đồng, còn số tiền 2.000.000 đồng là tiền của T và 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu hồng, là tài sản của T, Cơ quan điều tra đã trả lại cho T.

- Số tiền 700.000 đồng là tiền Đặng Đ sử dụng để đánh bạc. Cơ quan CSĐT nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước. Riêng 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng, đây là tài sản của Đ, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Đặng Đ.

- Số tiền 13.700.000 đồng tạm giữ từ Bùi Quang P. Trong đó, xác định P sử dụng số tiền 3.700.000 đồng để đánh bạc nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 3.700.000 đồng. Còn lại số tiền 10.000.000 đồng, là tiền của P và 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, là tài sản của P, Cơ quan điều tra đã trả lại cho P.

- Số tiền 4.850.000 đồng là tiền Phạm Huy E sử dụng để đánh bạc nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước. Riêng 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh, là tài sản của E, Cơ quan điều tra đã trả lại cho E.

- Số tiền 1.800.000 đồng là tiền Nguyễn Đức T sử dụng để đánh bạc nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Số tiền 2.000.000 đồng là tiền Cao Trung Đ thu lợi bất chính từ việc chứa đánh bạc nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 xe môtô hiệu Sirius màu đen xám, biển số: 76B1 - 476.75, Cơ quan điều tra xác định Nguyễn Đức T là người đứng tên chủ sở hữu, không có liên quan trong việc đánh bạc. Do đó, Cơ quan điều tra đã trả xe môtô hiệu Sirius màu đen xám, biển số: 76B1 – 476.75 cho Nguyễn Đức T.

- 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG GALAXY J8 màu tím và 01 chứng minh nhân dân mang tên Cao Trung Đ, xác định không liên quan đến hành vi đánh bạc, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Cao Trung Đ.

- Riêng đối với tài sản tạm giữ từ những người không tham gia đánh bạc. Cơ quan điều tra đã xác minh xác định là tài sản cá nhân nên đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, cụ thể:

+ Tạ Thị Thu S: Số tiền 80.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu IPHONE màu trắng hồng.

+ Trần Thị T: 01 xe môtô hiệu SH MODE màu đỏ đen, biển số 76B1-506.88, 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu xanh và số tiền 80.900.000 đồng.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra, truy tố, xét xử thì các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Về án phí trong vụ án hình sự: Mỗi bị cáo Đỗ Thị Thanh H, Nguyễn Đình L, Trần Thị T, Đặng Đ, Bùi Quang P, Nguyễn Đức T, Phạm Huy E và Cao Trung Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

[7] Tuyên quyền kháng cáo cho người tham gia tố tụng.

[8] Với nhận định về quyết định hình phạt đối với bị cáo L là phù hợp ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, phần còn lại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi đề nghị mức hình phạt đối với H, T, Đ, P, T, E và Đ có phần nghiêm khắc nên không phù hợp với nhận định trên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 (khoản 2 chỉ áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Đức T và Cao Trung Đ) Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1/ Tuyên bố các bị cáo Đỗ Thị Thanh H, Cao Trung Đ, Nguyễn Đình L, Trần Thị T, Đặng Đ, Bùi Quang P, Phạm Huy E, Nguyễn Đức T phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt:

- Đỗ Thị Thanh H 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Cao Trung Đ 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Nguyễn Đình L 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).

- Trần Thị T 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).

- Đặng Đ 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).

- Bùi Quang P 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).

- Phạm Huy E 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).

- Nguyễn Đức T 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 cái đĩa, 01 cái chén, 04 quân vị được cắt ra từ các lá bài Tây và 01 chiếc chiếu.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: Số tiền 32.750.000 đồng (Ba mươi hai triệu, bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

(Các vật chứng, tài sản trên có đặc điểm tại biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/6/2020 giữa Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi, giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 30/3/2020 của Công an thành phố Quảng Ngãi).

3/ Về án phí trong vụ án hình sự: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Mỗi bị cáo Đỗ Thị Thanh H, Nguyễn Đình L, Trần Thị T, Đặng Đ, Bùi Quang P, Nguyễn Đức T, Phạm Huy E và Cao Trung Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 35/2020/HS-ST

Số hiệu:35/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về