TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 342/2022/HS-PT NGÀY 05/09/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 05 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 251/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo Bạch Thế B và đồng phạm do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 73/2022/HSST ngày 20/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 306/2022/QĐXX- PTHS ngày 17/8/2022.
Bị cáo bị kháng nghị:
1. Bạch Thế B, sinh ngày 19 tháng 03 năm 1994 tại Đồng Nai;
Nơi đăng ký thường trú: ấp 7, xã B, huyện L, tỉnh Đ. Nghề nghiệp không; Trình độ văn hóa 12/12; Dân tộc kinh; Giới tính nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bạch H và con bà Trần Thị A; có vợ là Vũ Thị Mỹ Dn (Đăng ký kết hôn ngày 04/4/2022).
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
2. Trần Ngọc Th, sinh ngày 21 tháng 12 năm 2003 tại Quảng Nam.
Nơi đăng ký thường trú: thôn Ngọc Sơn Đ, xã B, huyện Th, tỉnh Q. Nơi sinh sống: ấp 2, xã A, huyện L, tỉnh Đ. Nghề nghiệp không; Trình độ văn hóa 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Ngọc Tr và con bà Trương Thị Tr; Chưa có vợ con;
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
3. Nguyễn Tấn Th, sinh ngày 06 tháng 3 năm 2001 tại Đồng Nai.
Nơi đăng ký thường trú: tổ 9, khu Ph, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ. Nơi sinh sống: ấp 1, xã A, huyện L, tỉnh Đ.
Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Ngọc L; Chưa có vợ con.
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
4. Nguyễn Trung Th, sinh ngày 18 tháng 11 năm 1998 tại Đồng Nai.
Nơi đăng ký thường trú: tổ 13b, khu Ph, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ. Nơi sinh sống: tổ 12, ấp B, xã L, huyện L, tỉnh Đ.
Nghề nghiệp công nhân; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Trung Th (đã chết) và con bà Nguyễn Thị Thu Th; Chưa có vợ con.
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
5. Nguyễn Trần Minh Q, sinh ngày 11 tháng 5 năm 2001 tại Đồng Nai.
Nơi đăng ký thường trú: tổ 16, khu Phi, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đi.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Long Thanh H và con bà Trần Thị Q; Chưa có vợ con.
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
Người làm chứng: Anh Đoàn Duy T, sinh năm 2000 (có mặt). Địa chỉ: ấp S 1, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính:
Vào khoảng 18 giờ ngày 27/01/2022, Công an thị trấn L, huyện Long Th đi tuần tra, phát hiện bắt quả tang Bạch Thế B, Nguyễn Trần Minh Q, Nguyễn Tấn Th, Nguyễn Trung Th và Trần Ngọc Th có hành vi đánh bạc tại tiệm điện thoại di động “Béo Store” thuộc tổ 26A, khu Ph, thị trấn L, huyện L do Đoàn Duy T làm chủ. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 5.080.000 đồng, 01 bộ bài tây 52 lá. Tạm giữ một số tài sản khác của các đối tượng.
Quá trình điều tra xác định: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/01/2022, B, Q, Th, Th, Th gặp nhau tại tiệm “Béo Store” thuộc tố 26A, khu Ph, thị trấn L, huyện L do Đoàn Duy T làm chủ. Tại tiệm B rủ các đối tượng lên gác của tiệm điện thoại chơi bài cào tố 03 lá được thua bằng tiền, tất cả đồng ý, các đối tượng nói cho T biết nhưng T cũng không có ý kiến gì. Th đi mua 02 bộ bài tây tại tiệm tạp hóa bên cạnh rồi sau đó cùng B, Q, Th, Th và Lê Thị Thanh T là bạn gái của Th cùng nhau đi lên gác của tiệm chơi bài (T không tham gia đánh bài mà ngồi xem). B, Q, Th, Th và Th ngồi Th một vòng tròn. Mỗi ván bài người chơi đặt 20.000 đồng vào giữa gọi là tiền đường, sau đó chia mỗi người 03 lá bài tây (không có người làm cái), tới lượt ai thì người đó tố thêm (đưa tiền thêm vào sòng) từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng hoặc không theo thì úp bài (mất 20.000 đồng tiền ban đầu), mỗi ván bài tố nhiều nhất là 2 lần. Nếu chỉ có 01 người tố mà không ai theo thì người tố sẽ được tất cả tiền trên sòng bài, nếu có từ 02 người trở lên tố bằng tiền nhau thì mở bài ra, ai lớn hơn thì được tất cả tiền trên sòng bài. Khi chơi, B mang theo số tiền 500.000 đồng để đánh bạc, B cho Q mượn 300.000 đồng để đánh bạc nên còn lại 200.000 đồng, Th mang theo 10.720.000 đồng, sử dụng 720.000 đồng để đánh bạc, Th mang theo số tiền 500.000 đồng để đánh bạc, khi đang chơi thì có người bạn tên Khoa đưa cho Th số tiền 2.700.000 đồng nhờ chuyển khoản, Th sử dụng luôn số tiền này để đánh bạc và Th mang theo số tiền 8.570.000 đồng, Th sử dụng 570.000 đồng để chơi trước, xác định nếu thua hết sẽ sử dụng tiếp 500.000 đồng để đánh bạc. Đến 18 giờ cùng ngày khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị Công an thị trấn Long Thành đi tuần tra phát hiện, bắt quả tang như trên.
2. Vật chứng:
Vật chứng thu giữ tại chiếu bạc số tiền 5.080.000 đồng, 01 bộ bài tây 52 lá; thu giữ của Th số tiền 10.000.000 đồng, 01 điện thoại di động Oppo Reno2F màu xanh, 01 xe mô tô biển số 60G1-261.X; thu giữ của Th số tiền 8.000.000 đồng, 01 điện thoại Iphone XS Max màu vàng, 01 xe mô tô biển số 60G1- 247.X; thu giữ của Q 01 điện thoại di động Iphone 13 Promax màu bạc, 01 điện thoại di động Iphone XS màu vàng; thu giữ của Th 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro màu trắng, 01 xe mô tô biển số 60C1-056.X và thu giữ của B 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro màu xanh, 01 ô tô biển số 60C-584.X.
Trước Cơ quan Cảnh sát điều tra Công huyện Long Th, các bị cáo Trần Ngọc Th, Nguyễn Tấn Th, Nguyễn Trung Th, Nguyễn Trần Minh Q, Bạch Thế B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng cùng các chứng cứ tài liệu thu thập được tại hồ sơ vụ án.
3. Truy tố:
Tại bản cáo trạng số 59/CT-VKSLT ngày 22/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Th đã truy tố các bị cáo Trần Ngọc Th, Nguyễn Tấn Th, Nguyễn Trung Th, Nguyễn Trần Minh Q về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
4. Quyết định của cấp sơ thẩm:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 73/2022/HS-ST ngày 20/5/2022 và của Tòa án nhân dân huyện Long Th, đã quyết định như sau:
Tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc Th, Nguyễn Tấn Th, Nguyễn Trung Th, Nguyễn Trần Minh Q và Bạch Thế B phạm tội “Đánh bạc”. Theo khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt: Bị cáo Bạch Thế B: 40.000.000đ; Bị cáo Trần Ngọc Th:
40.000.000đ; Bị cáo Nguyễn Tấn Th: 30.000.000đ; Bị cáo Nguyễn Trung Th:
30.000.000đ; Bị cáo Nguyễn Trần Minh Q: 20.000.000đ. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.
5. Kháng nghị:
Ngày 14/06/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có quyết định số 204/QĐ-VKS-P2 kháng nghị theo hướng Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số: 73/2022/HS-ST ngày 20-05-2022 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành để điều tra xét xử lại với lý do: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo đánh bạc trái phép với hình thức “Chơi bài cào tố 03 lá”. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 5.580.000đ. Thỏa mãn cấu Th tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Căn cứ vào lời khai của các bị cáo trong vụ án, anh Đoàn Duy T là chủ cửa hàng điện thoại, về ý thức chủ quan T nhận biết rõ B, Q, Th, Th chơi bài được thua bằng tiền nhưng không có hành vi ngăn cản, mặc dù không mong muốn nhưng để mặc hậu quả xảy ra, lỗi cố ý gián tiếp. Hành vi của T có dấu hiệu giúp sức, tạo điều kiện thuận lợi về mặt vật chất cho các bị cáo thực hiện chót lọt hành vi phạm tội nhưng cấp sơ thẩm không đấu tranh, điều tra làm rõ là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm tội.
6. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:
Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xác định cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Bạch Thế B, Trần Ngọc Th, Nguyễn Tấn Th; Nguyễn Trung Th và Nguyễn Trần Minh Q về tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321; của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng pháp luật. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của các bị cáo trong vụ án đặc biệt là lời khai của bị cáo Th thì Đoàn Duy T là chủ cửa hàng điện thoại, ý thức chủ quan T nhận biết rõ B, Q, Th, Th chơi bài được thua bằng tiền nhưng không có hành vi ngăn cản, mặc dù không mong muốn nhưng để mặc hậu quả xảy ra, lỗi cố ý gián tiếp. Hành vi của T có dấu hiệu giúp sức, tạo điều kiện thuận lợi về mặt vật chất cho các bị cáo thực hiện chót lọt hành vi phạm tội nhưng cấp sơ thẩm không đấu tranh, điều tra làm rõ là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm tội.
Do đó đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra làm rõ hành vi của Đoàn Duy T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng nai làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng nghị:
Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, cùng các lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đã thể hiện trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra công an huyện Long Th đã làm rõ được Bạch Thế B là người phụ giúp cho anh Đoàn Duy T là chủ cửa hàng điện thoại, vào khoảng 15 giờ khi Đoàn Duy T đến tiệm để thực hiện công việc thì anh B đã thấy tại tiệm điện thoại đã có bị cáo Th (cộng tác viên của cửa hàng), cùng B và một số người khác đứng nói chuyện tại cửa hàng một lúc sau anh T thấy mọi người đi lên gác, nên T có hỏi bị cáo B lên đó làm gì? Bị cáo B trả lời “anh lên chơi bài”, hỏi xong T tiếp tục ở dưới coi phim khoảng 10 phút rồi đi ra ngoài công chuyện đến hơn 1 giờ đồng hồ, khi về biết mọi người vẫn đang chơi bài trên gác, T tiếp tục chơi game dưới cửa hàng 10 phút sau thì lực lượng công an đến bắt quả tang các bị cáo đang chơi bài trên gác. Lời khai của các bị cáo trong vụ án phù hợp với lời khai của anh Đoàn Duy T được thể hiện tại các biên bản ghi lời khai cũng như bản tự khai của các bị cáo từ khi bị bắt quả tang cho đến trước ngày 17/2/2022 đều thể hiện trong quá trình các bị cáo chơi bài trên gác anh T không tham gia, không thu tiền xâu, không lên gác coi mọi người chơi bài bằng hình thức gì, chơi tổng số tiền là bao nhiêu. Bản thân Đoàn Duy T chỉ biết các bị cáo lên gác chơi bài do Bạch Thế B nói lên chơi bài. Tuy nhiên, tại khai của các bị cáo có trong hồ sơ vụ án vào ngày 17/2/2022 (biên bản ghi lời khai cuối cùng khi kết thúc điều tra) đều giống nhau từng câu chữ, chỉ khác người khai và đều lập lại một câu “Khi chúng tôi đến tiệm nói với anh T là chơi đánh bài ăn tiền thì T đồng ý và nói chơi xong nhớ dọn và T không thu tiền của ai và cũng không ai đưa tiền cho T”. Hội đồng xét xử xem xét lời khai của các bị cáo trong vụ án vào ngày 17/2/2022 là không khách quan, bởi lẽ tại biên bản lấy lời khai của Nguyễn Trần Minh Q (BL103, 104) nhưng trả lời lại là bị cáo Trần Ngọc Th. Tại biên bản lấy lời khai của Nguyễn Trung Th, nhưng phần trình bày lại là bị cáo Bạch Thế B (tại BL 98).
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay tất cả các bị cáo đều khai khi đến tiệm điện thoại chơi, T chỉ biết các bị cáo chơi bài chứ không biết các bị cáo chơi bài ăn tiền, T không tham gia hay thu tiền hoặc hùn hạp tiền với các bị cáo đánh bạc, đồng thời các bị cáo cũng xác định lời khai tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm hôm nay là đúng sự thật còn việc các bị cáo khai trong quá trình điều tra về việc T biết các bị cáo chơi bài ăn tiền là không đúng.
Từ những căn cứ trên đã có đủ cơ sở xác định trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã làm rõ hành vi của các bị cáo trong vụ án cũng như đã làm rõ được việc anh Đoàn Duy T không tham gia, không biết các bị cáo trong vụ án thực hiện hành đánh bạc ăn tiền, không chứa chấp hay giúp sức cho các bị cáo khác trong vụ án thực hiện hành vi đánh bạc. Do đó, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai chỉ căn cứ vào các lời khai không khách quan của các bị cáo trong vụ án vào ngày 17/2/2022 để cho rằng Đoàn Duy T có dấu hiệu của đánh bạc với vai trò đồng phạm đối với các bị cáo khác trong vụ án và cho rằng các cơ quan tố tụng tại cấp sơ thẩm bỏ lọt hành vi phạm tội của Đoàn Duy T là không có căn cứ chấp nhận.
Từ những vấn đề nêu trên, Hội đồng xét xử xét Quyết định kháng nghị số 204/QĐ-VKS-P2 ngày 14/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai không có căn cứ nên không chấp nhận. [3]. Về hình phạt:
Sau khi xem xét toàn bộ hồ sơ vụ án, diễn biến phiên tòa Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Trần Ngọc Th, Nguyễn Tấn Th, Nguyễn Trung Th, Nguyễn Trần Minh Q và Bạch Thế B về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321;
điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), là đúng quy định của pháp luật, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với cáo Bạch Thế B 40.000.000đ; Bị cáo Trần Ngọc Th 40.000.000đ; Bị cáo Nguyễn Tấn Th 30.000.000đ; Bị cáo Nguyễn Trung Th 30.000.000đ và bị cáo Nguyễn Trần Minh Q 20.000.000đ là phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện.
[4] Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án;
Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Quan điểm của của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm không phù hợp với Hội đồng xét xử nên không được ghi nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng nghị 204/QĐ-VKS-P2 ngày 14/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 73/2022/HS-ST ngày 20/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành.
1. Tội danh:
Tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc Th, Nguyễn Tấn Th, Nguyễn Trung Th, Nguyễn Trần Minh Q và Bạch Thế B phạm tội “Đánh bạc”. Theo khoản 1 Điều 321; của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
2. Hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt:
- Bị cáo Bạch Thế B: 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng).
- Bị cáo Trần Ngọc Th: 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng).
- Bị cáo Nguyễn Tấn Th: 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).
- Bị cáo Nguyễn Trung Th: 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).
- Bị cáo Nguyễn Trần Minh Q: 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
- Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ bộ bài tây 52 lá.
- Tịch thu sung công quỹ nhà nước: Số tiền 5.580.000 đồng (gồm số tiền thu giữ tại chiếu bạc 5.058.000đ và số tiền 500.000đ bị can Th sẽ sử dụng vào việc đánh bạc).
Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành lưu giữ theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành và giấy nộp tiền mặt ngày 20/4/2022.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ về án phí và lệ phí Tòa án.
4.1. Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Trần Ngọc Th, Nguyễn Tấn Th, Nguyễn Trung Th, Nguyễn Trần Minh Q và Bạch Thế B mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4.2. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
5. Quyết định của bản án sơ thẩm về không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 342/2022/HS-PT
Số hiệu: | 342/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về