TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 34/2022/HS-ST NGÀY 06/09/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 06/9/2022 tại Trụ sở TAND huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, TAND huyện Phù Ninh mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2022/HSST ngày 05/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST - HS ngày 18/8/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/QĐST – HS ngày 30/8/2022 đối với các bị cáo:
1. B H C, Tên gọi khác: Không; SN 1984; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Đội 9, xã Thụy Vân, TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Xuân Tùng; Con bà: Nguyễn Thị Liên; Vợ: Đặng Thị Phương Linh; Con: có 02 con (Lớn nhất SN 2012, nhỏ nhất SN 2016); Tiền sự: Không; Tiền án: Tại Bản án số 310/2021/HS – ST ngày 13/12/2021 của TAND quận Hà Đông, TP. Hà Nội xử phạt Cường 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ hiện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi tại xã Thụy Vân, TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
2. N T K, Tên gọi khác: Không; SN 1988; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu 7, xã Phượng Lâu, TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Đức Việt; Con bà: Nguyễn Thị Vở; Vợ: Nguyễn Thị Thu Hương; Con: có 02 con (Lớn nhất SN 2017, nhỏ nhất SN 2022); Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Phượng Lâu, TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
3. N Đ N, Tên gọi khác: Không; SN 1990; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu 13, xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Đình Thám; Con bà: Nguyễn Thị Mão; Vợ: Lưu Thị Bích Ngọc; Con: Có 01 con SN 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: ngày 05/5/2018 bị Công an huyện Phù Ninh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau với hình thức phạt tiền (Đã nộp phạt ngày 14/5/2018).
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
4. Đ N T, Tên gọi khác: Không; SN 1994; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu Chung Dầu, xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đặng Văn Tuyển; Con bà: Ngô Thị Niên; Vợ: Lê Thị Mùa; Con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
5. N D T, Tên gọi khác: Không; SN 1984; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu 7, phường Nông Trang, TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Giang; Con bà: Nguyễn Thị Hợp; Vợ: Tạ Thị Huệ; Con: Có 02 con (Lớn nhất SN 2011, nhỏ nhất SN 2021); Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường Nông Trang, TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
6. N M H, Tên gọi khác: Không; SN 1978; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu Thống Nhất, TT Lập Thạch, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Tuấn Đễ; Con bà: Nguyễn Thị Hồng Vượng; Vợ: Vũ Thị Hiên; Con: Có 02 con (Lớn nhất SN 2004, nhỏ nhất SN 2012); Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại Thị trấn Lập Thạch, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Hôm nay, có mặt.
7.H M T, Tên gọi khác: Không; SN 1991; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu 10, xã Tiên Du, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Kim Chi; Con bà: Đỗ Thị Huệ; Vợ: Nguyễn Thị Hà; Con: 01 con sinh năm 2022; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Tiên Du, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
8. P N H, Tên gọi khác: Không; SN 1985; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu 3, xã Vân Lĩnh, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn Đệ; Con bà: Trần Thị Tỵ; Vợ: Vi Thị Thu; Con: Có 02 con (Lớn nhất SN 2009, nhỏ nhất SN 2011); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: ngày 28/11/2012 bị Công an thành phố Việt Trì ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, hình thức phạt tiền (Đã nộp phạt ngày 29/11/2012).
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Vân Lĩnh, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
9. Đ N T, Tên gọi khác: Không; SN 1996; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu Răm, xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đỗ Quốc Thân; Con bà: Trần Thị Thơ; Vợ: Đỗ Thị Ngọc Lan; Con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
10. N M T, Tên gọi khác: Không; SN 1997; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu 13, xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Tấn; Con bà: Nguyễn Thị Huệ; Vợ: Ngô Thị Hường; Con: 01 con sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
11. T V N, Tên gọi khác: Không; SN 1990; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu Răm, xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Trung Khiêm; Con bà: Thiều Thị Giang; Vợ: Phạm Thị Huế; Con: 03 (Lớn nhất SN 2011, nhỏ nhất SN 2022); Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
12. Đ M H, Tên gọi khác: Không; SN 1998; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu 3 xã An Đạo, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đặng Xuân Lập; Con bà: Nguyễn Thị Huyền; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 16/5/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã An Đạo, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Hoàng Xuân Trường, sinh năm 1985.
Địa chỉ: Khu 4, xã An Đạo, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
- Phùng Trung Hiếu, sinh năm 1985.
Địa chỉ: Khu 3, xã An Đạo, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 10/5/2022, tại xưởng cơ khí trong khuân viên công ty TNHH TARPIA VINA thuộc khu Gai Hạ, xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tổ công tác công an huyện Phù Ninh phát hiện bắt quả tang các đối tượng đang có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi xóc đĩa gồm: B H C, Sinh ngày 11/10/1984; HKTT: khu 9 Cẩm Đội, xã Thụy Vân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; Đ N T, Sinh ngày 10/6/1994; HKTT: khu Chung Dầu, xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; N D T, Sinh ngày 03/3/1984; HKTT: khu 7, phường Nông Trang, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; Đ N T, Sinh ngày 31/7/1996; HKTT: khu Răm, xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; T V N, Sinh ngày 24/02/1990; HKTT: khu Răm, xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ;Hoàng Mạnh Tuyên, Sinh ngày 25/02/1991; HKTT: khu 10, xã Tiên Du, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. N T K, Sinh ngày 28/6/1988; HKTT: khu 7, xã Phượng Lâu, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; P N H, Sinh ngày 30/01/1985; HKTT: khu 3, xã Vân Lĩnh, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ; N M T, Sinh ngày 24/4/1997; HKTT: khu 13, xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; N M H, Sinh ngày 16/9/1978; HKTT: khu Thống Nhất, thị trấn Lập Thạch, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; Đ M H, Sinh ngày 16/02/1998; HKTT: khu 3, xã An Đạo, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; N Đ N, Sinh ngày 03/02/1990; HKTT: khu 13, xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Thu giữ vật chứng tại nơi các đối tượng đánh bạc gồm: Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 11.440.000 đồng; 01 chiếc bát sứ màu trắng phía dưới đáy bát có chữ “LOHACO”, miệng bát có hai vết sứt mẻ; 01 chiếc đĩa sứ màu trắng kích thước đường kính 18,3cm, lòng đĩa có nhiều vết ố bẩn; 04 quân vị hình tròn một mặt màu trắng, một mặt màu xanh, đường kính mỗi quân vị là 02 cm; 01 chiếc đục bằng kim loại hình trụ tròn, có chiều dài 13 cm, một đầu có đường kính 2,3 cm, một đầu khoét rỗng có đường kính 2 cm. Kiểm tra người các đối tượng thu giữ trên người các đối tượng B H C số tiền 2.110.000 đồng và 01 điện thoại Iphone Promax; thu giữ của T V N số tiền 7.600.000 đồng và 01 điện thoại Iphone XS ; thu giữ của Đặng Ngô Tuấn số tiền 6.490.000 đồng và 01 điện thoại Samsung galaxy; thu giữ của P N H 01 điện thoại Iphone XS; thu giữ của N M H số tiền 3.000.000 đồng và 01 điện thoại Nokia 105; thu giữ của N M T số tiền 8.600.000 đồng và 01 điện thoại Iphone 11 Promax; thu giữ của N Đ N số tiền 1.800.000 đồng và 01 điện thoại OPPO Reno 4; thu giữ củaH M T số tiền 35.000 đồng và 01 điện thoại Iphone XS; thu giữ của Đ N T số tiền 8.440.000 đồng và 01 điện thoại Samsung galasy A51; thu giữ của N T K số tiền 15.680.000 đồng và 01 điện thoại Iphone 11 Promax; thu giữ của Đ M H 01 điện thoại Iphone 6 Plus; thu giữ của N D T số tiền 10.520.000 đồng và 01 điện thoại Iphone 11. Thu giữ của Hoàng Xuân Trường 01 điện thoại Redmi K305G; thu giữ của Phùng Trung Hiếu 01 điện thoại Iphone 11.
Tại cơ quan CSĐT công an huyện Phù Ninh, các đối tượng khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau:
B H C; Đ N T; N D T; Đ N T;T V N;H M T; N T K; P N H; N M T; N M H; Đ M H; N Đ N đều là công nhân của công ty TNHH TARPIA VINA. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 10/5/2022, tại xưởng cơ khí của công ty, các đối tượng cùng rủ nhau đánh bạc dưới hình thức chơi xóc đĩa được thua bằng tiền. Quy định cách thức đánh bạc như sau: Sau khi cho quân vị vào đĩa, úp bát vào và sóc, những người chơi sẽ đặt cược theo cửa chẵn hay lẻ. Chẵn là cả 04 quân vị trong đĩa đều có mặt màu trắng hoặc màu xanh hoặc là 02 quân vị có cùng màu trắng hoặc màu xanh; lẻ là khi 3 quân vị có mặt màu xanh, một mặt màu trắng hoặc 3 quân vị có mặt màu trắng, một mặt màu xanh. Mức đặt cược mỗi ván chơi thấp nhất là 50.000 đồng trở lên.
Tất cả 12 bị can tự thỏa thuận với nhau về số tiền đặt cược trước khi mở bát. Nếu số tiền đặt ở hai cửa chẵn và lẻ đã cân thì người cầm cái sẽ mở bát. Nếu số tiền đặt ở hai cửa chẵn, lẻ không cân bằng thì những người tham gia đánh bạc tự thỏa thuận thêm tiền đặt cược hoặc bớt tiền đặt cược để hai của chẵn, lẻ cân bằng số tiền đặt cược. Nếu không thỏa thuận được thì tất cả sẽ rút tiền về và chơi ván mới. Người thắng tự lấy tiền đã đặt cược và tiền thắng cược về. Tỷ lệ cược đặt 1 ăn 1, mức đặt cược mỗi ván từ 50.000 đồng trở lên tùy theo người chơi. Bản thân B H C là người cầm cái điều khiển việc đánh bạc đồng thời cũng tham gia đặt cửa như 11 người chơi còn lại.
Khi tham gia đánh bạc, các bị can đem theo và sử dụng số tiền đánh bạc như sau:
B H C có số tiền 3.310.000 đồng, Cường bỏ số tiền 1.200.000 đồng để đánh bạc. Cường đánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị công an bắt Cường không rõ thắng thua vì số tiền đánh bạc để trên nền đánh bạc. Số tiền 2.110.000 để trong ví Cường khai không dùng để đánh bạc.
T V N có số tiền 7.690.000 đồng. Na lấy ra 90.000 đồng để đánh bạc. Na đánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị công an bắt Na đang thắng bạc có 250.000 đồng để tại vị trí Na ngồi đánh bạc. Số tiền 7.600.000 đồng thu giữ trên người Na không dùng để đánh bạc.
Đ N T có số tiền 7.990.000 đồng. Tuân lấy ra 1.500.000 đồng để đánh bạc. Tuân đánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị phát hiện Tuân đã thua số tiền 1.100.000 đồng, còn lại 400.000 đồng Tuân để ở nền đất trước mặt. Số tiền 6.490.000 đồng để trong người Tuân khai không sử dụng để đánh bạc.
P N H khai có số tiền 200.000 đồng, Hà sử dụng tất cả để đánh bạc. Hà đánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị phát hiện Hà đã thua hết số tiền này.
N M H khai có 4.300.000 đồng, Hùng lấy ra 1.300.000 đồng để đánh bạc. Hùng đánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị phát hiện Hùng để hết tiền ở nền đất nên không rõ mình thắng thua như thế nào. Số tiền còn lại 3.000.000 đồng Hùng cất ở trong người và không sử dụng để đánh bạc.
N M T khai có 8.700.000 đồng, Tiến lấy 100.000 đồng để đánh bạc. Tiến đánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị phát hiện bắt quả tang Tiến đã thua hết số tiền này. Thu giữ trên người Tiến số tiền 8.600.000 đồng, Tiến khai không sử dụng để đánh bạc.
N Đ N khai có 4.800.000 đồng. Ngọc lấy ra 3.000.000 đồng để đánh bạc. Ngọc đánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị bắt quả tang Ngọc đang thua 2.300.000 đồng, còn lại 700.000 đồng Ngọc để trước mặt chỗ Ngọc ngồi đánh bạc, ngoài ra thu giữ trên người Ngọc số tiền 1.800.000 đồng, Ngọc khai không dùng để đánh bạc.
Hoàng Mạnh Tuyên khai có 435.000 đồng, Tuyên đã chơi thua hết số tiền 400.000 đồng. Tuyên đánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị bắt quả tang trong ví Tuyên còn 35.000 đồng và không sử dụng để đánh bạc.
Đ N T khai có 8.540.000 đồng, Thiện lấy 100.000 đồng để đánh bạc. Thiện đánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị phát hiện bắt quả tang Thiện đã thua hết 100.000 đồng, kiểm tra trên người Thiện thu giữ số tiền 8.440.000 đồng, Thiện khai không sử dụng để đánh bạc.
N T K khai nhận có 17.680.000 đồng. Kiên dùng 2.000.000 đồng để đánh bạc. Kiên đánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị bắt quả tang Kiên không rõ thắng thua. Kiểm tra người Kiên thu giữ số tiền 15.680.000 đồng, Kiên khai không sử dụng để đánh bạc.
Đ M H khai có 50.000 đồng. Hải sử dụng tất số tiền này để đánh bạc. Hải đánh bạc liên tục từ khi chơi đến khi bị bắt quả tang. Khi bị công an phát hiện bắt quả tang, Hải đã thua hết số tiền trên.
N D T khai nhận có khoảng 12.000.000 đồng. Thanh sử dụng 1.500.000 đồng để đánh bạc.Thanhđánh bạc liên tục từ đầu đến khi bị bắt quả tang. Khi bị phát hiện bắt quả tang Thanh không rõ thắng thua. Kiểm tra trên người Thanh thu giữ số tiền 10.520.000 đồng, Thanh khai nhận không sử dụng để đánh bạc.
Như vậy, đã xác định được tổng số tiền các bị can sử dụng để đánh bạc là 11.440.000đ.
Đây là vụ án có đồng phạm, trong đó các bị can đều là người thực hiện hành vi đánh bạc và đều có động cơ mục đích là vụ lợi. Riêng N T K còn là người chuẩn bị bát, đĩa, và quân vị để cho mọi người đánh bạc; B H C là người xóc cái cho mọi người đặt cược. Tuy nhiên Cường không phải là người cân cửa và cân tiền đặt cược mà chỉ xóc cái rồi cùng tham gia đặt cửa như những người khác.
Quá trình điều tra B H C; N T K; N Đ N; N D T; N M H;Đ N T;H M T; P N H; Đ N T; N M T; T V N và Đ M Hđã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như trên. Lời khai của các bị can phù hợp với nhau và phù hợp với tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Tại cáo trạng số 31/CT - VKSPN ngày 05/8/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Ninh đã truy tố B H C, N T K, N Đ N, Đ N T, N D T, N M H,H M T, P N H, Đ N T, N M T, T V N và Đ M H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 điều 321 BLHS 2015.
Tại phiên tòa hôm nay, sau khi phát biểu quan điểm luận tội, đại diện VKSND huyện Phù Ninh đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo trên đều phạm tội “Đánh bạc” và đề nghị:
- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 , khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65, Điều 38 của BLHS 2015:
Xử phạt: B H C: từ 06 (Sáu) tháng tù đến 08 (Tám) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của Bản án hình sự sơ thẩm số 310/2021/HS – ST ngày 12/12/2021 của TAND quận Hà Đông, TP. Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án từ 12 (Mười hai) tháng tù đến 17 (Mười bốn) tháng tù. Bị cáo được trừ 09 ngày tạm giữ từ ngày 16/7/2020 đến ngày 19/7/2020 và từ ngày 10/5/2022 đến 16/5/2022. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
Về hình phạt bổ sung: Đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của BLHS 2015 xử phạt:
+ N Đ N: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+ P N H: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+ N D T: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+H M T: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+ Đ N T: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+ N M T: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+ T V N: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+ Đ M H: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+ Đ N T: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 của BLHS 2015 xử phạt:
+ N T K: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+ N M H: Từ: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong khoảng thời gian từ 16 giờ 30 phút ngày 10/5/2022, tại xưởng cơ khí trong khuân viên công ty TNHH TARPIA VINA thuộc khu Gai Hạ, xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Các bị cáo gồm: B H C; Đ N T; N D T; Đ N T; T V N;H M T;N T K; P N H;N M T; N M H; Đ M H và N Đ N đã có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi xóc đĩa. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc được xác định là 11.440.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng). Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, khi các bị cáo đang đánh bạc thì bị tổ công tác Công an huyện Phù Ninh đã phát hiện bắt quả tang, lập biên bản và thu giữ toàn bộ vật chứng.
[2] Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng mà VKSND huyện Phù Ninh đã truy tố. Do đó, hành vi đánh bạc bằng hình xóc đĩa được thua bằng tiền nêu trên của các bị cáo đã bị VKSND huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ truy tố về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015 là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình chơi xóc đĩa của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh của xã hội, bị xã hội lên án và là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo có đủ năng lực để nhận thức được hành vi chơi xóc đĩa được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật. Nhưng vì hám lợi, muốn kiếm tiền nhanh chóng nên các bị cáo vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xử lý nghiêm khắc trước pháp luật để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần xem xét đến vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.
- Về nhân thân của các bị cáo: Các bị cáo N T K, N D T, N M H,H M T, Đ N T, Đ N T, N M T, T V N và Đ M H có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo P N H và N Đ N mặc dù được xác định là không có tiền án, tiền sự nhưng được xác định là có nhân thân xấu do trước đó đã bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính. Bị cáo B H C cũng được xác định là có nhân thân xấu do phạm tội trong thời gian đang chấp hành một bản án khác.
- Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay tất cả các bị cáo đều thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.
Các bị cáo N T K, N D T, N M H,H M T, Đ N T, Đ N T, N M T, T V N, Đ M H, P N H và N Đ N lần phạm tội này là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 điều 51 BLHS.
Bị cáo B H C có bố đẻ là người có công với Cách mạng và được tặng thưởng Huân chương chiến sỹ giải phong và Huy Chương chiến sỹ vẻ vang. Bị cáo N T K và N M H có bố đẻ là thương binh. Do đó, các bị cáo Cường, Kiên và Hùng được HĐXX xem xét cho hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
- Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo B H C phạm tội khi đang phải chấp hành một bản án khác do đó lần phạm tội này bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS 2015. Các bị cáo còn lại không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[5] Đánh giá vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn. Các bị cáo đều tham gia với vai trò là người thực hành và tham gia chơi từ đầu cho đến khi bị phát hiện bắt quả tang. Trong vụ án này bị cáo Kiên và bị cáo Ngọc sử dụng số tiền đánh bạc nhiều nhất. Các bị cáo còn lại sử dụng tiền đánh bạc tương đương nhau. Bị cáo Kiên còn là người chuẩn bị bát, đĩa và quân vị để cho mọi người cùng đánh bạc. Do đó, khi quyết định hình phạt HĐXX cần cân nhắc để áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để vừa đảm bảo nguyên tắc cá thể hóa hình phạt vừa thể hiện tính răn đe, giáo dục và cũng thể hiên sự khoan hồng của pháp luật [6] Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo có đủ năng lực để nhận thức được hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi xóc đĩa được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi, muốn có tiền nhanh nhất nên các bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Tuy nhiên, căn cứ vào nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Kiên, Ngọc, Thanh, Hùng, Tuyên, Hà, Thiện, Tuân, Tiến, Na và Hải đồng thời xét thấy các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền theo đề nghị của Kiểm sát viên cũng đủ để giáo dục các bị cáo thành công dân tốt và nhận thức được sai lầm của bản thân.
Đối với bị cáo B H C: Bị cáo đã bị xét xử 1 lần về hành vi đánh bạc và đang trong thời gian chấp hành bản án nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để cải tạo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội mà lại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc trái pháp luật nên lần phạm tội này cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có cơ hội cải tạo thành công dân tốt. Tại Bản án số 310/2021/HS – ST ngày 13/12/2021 của TAND quận Hà Đông, TP. Hà Nội xử phạt bị cáo 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng. Bị cáo đang trong thời gian chấp hành hình phạt của Bản án này lại lại tiếp tục thực hiện tội phạm mới nên căn cứ khoản 2 Điều 56 của BLHS Hội đồng xét xử quyết định tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt của bản án trước để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của cả hai bản án là phù hợp với quy định của pháp luật.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 điều 321 BLHS thì các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình bổ sung là phạt tiền.Tuy nhiên, đối với bị cáo B H C qua xác minh tài sản xác định bị cáo không có tài sản gì riêng, không có việc làm ổn định và thu nhập thường xuyên nên HĐXX miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bi cáo. Đối với các bị cáo còn lại do được HĐXX xem xét áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với cả các bị cáo này.
[8] Về xử lý vật chứng:
- Đối với số tiền 69.225.000 đồng (Sáu mươi chín triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) thu giữ tại chiếu bạc và thu giữ trên người các bị cáo: Trong tổng số tiền này có 11.440.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) thu giữ tại chiếu bạc, quá trình điều tra đã xác định đây là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung Ngân sách nhà nước. Số tiền 57.785.000 đồng (Năm mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi lăm nhgìn đồng) còn lại thu giữ trên người các bị cáo, quá trình điều tra xác định đây là tiền của các bị cáo và các bi cáo không sử dụng để đánh bạc nên cần trả lại cho các bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Đối với các các điện thoại di động mà Cơ quan điều tra thu giữ của các bị cáo và của những người liên quan: Quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo và những người liên quan là phù hợp.
- Đối với 01 (một) chiếc bát sứ màu trắng phía dưới đáy bát có chữ “LOHACO”, miệng bát có hai vết sứt mẻ; 01 (một) chiếc đĩa sứ màu trắng đường kính 18,3 cm, lòng đĩa có nhiều vết ố bẩn; 04 (bốn) quân vị hình tròn, một mặt màu trắng, một mặt màu xanh đường kính mỗi quân vị 02 cm; 01 (một) chiếc đục bằng kim loại hình trụ tròn có chiều dài 13,0 cm, một đầu bằng có đường kính 2,3 cm, một đầu khoét rỗng có đường kính 2,0 cm: Đây là vật chứng vụ án và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 02 (hai) chiếc ví giả da màu đen; 03 (ba) chiếc ví giả da màu nâu thu giữ của các bị cáo: N M T, B H C, N D T, Đ N T vàH M T: Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đều xin được nhận lại nên trả lại cho các bị cáo.
[9] Tại phiên tòa, kiểm sát viên đã trình bày luận tội đối với các bị cáo, đề nghị HĐXX kết tội các bị cáo như Cáo trạng đã truy tố, đề nghị mức hình phạt và đề xuất về xử lý vật chứng. Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án và diễn biến, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và cũng phù hợp với các quy định của pháp luật vì vậy được chấp nhận.
[10] Trong quá trình điều tra vụ án, các quyết định và các hành vi tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tất cả các Quyết định tố tụng trong vụ án đều được lập, giao nhận cho những người tham gia tố tụng theo đúng trình tự mà pháp luật quy định. Các tài liệu, chứng cứ đã thu thập đều phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án, phù hợp với diễn biến của phiên tòa và có đủ cơ sở để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo.
[11] Đối với Phùng Trung Hiếu, sinh năm 1985, trú tại khu 3, xã An Đạo, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ và Hoàng Xuân Trường, sinh năm 1985, trú tại khu 4, xã An Đạo, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ: Quá trình điều tra xác định Hiếu và Trường có mặt tại nơi các bị cáo trên đánh bạc nhưng không tham gia chơi cùng các bị cáo. Do đó, Cơ quan điều tra không xem xét, xử lý xét thấy là phù hợp.
[12] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 , khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65, Điều 38 của BLHS 2015:
Tuyên bố: Bị cáo B H C phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt: B H C: 07 (Bảy) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của Bản án hình sự sơ thẩm số 310/2021/HS – ST ngày 12/12/2021 của TAND quận Hà Đông, TP. Hà Nội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 13 (Mười ba) tháng tù. Bị cáo được trừ 09 ngày tạm giữ từ ngày 16/7/2020 đến ngày 19/7/2020 và từ ngày 10/5/2022 đến 16/5/2022. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của BLHS 2015 xử phạt:
Tuyên bố các bị cáo: N Đ N, P N H, N D T,H M T, Đ N T, N M T, T V N, Đ M H và Đ N T đều phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt:
+ N Đ N: 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+ P N H: 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
+ N D T: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
+H M T: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
+ Đ N T: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
+ N M T: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
+ T V N: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
+ Đ M H: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
+ Đ N T: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 của BLHS 2015 xử phạt:
Tuyên bố các bị cáo: N T K và N M H đều phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt:
+ N T K: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
+ N M H: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
Căn cứ: Khoản 1 điều 47; Khoản 2, 3 điều 106; khoản 2 Điều 136, khoản 1 điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý vả sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
* Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: Số tiền 11.440.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc. Khoản tiền này hiện đang tạm giữ tại tài khoản tạm giữ số 3949.0.1053892.00000 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Phù Ninh mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Phù Ninh.
- Trả lại cho:
+ Bị cáo B H C: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax màu trắng gắn sim số 0979918184; 01(một) ví giả da màu đen và số tiền 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng). Tạm giữ khoản tiền trên để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.
+ Bị cáo Đ N T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung GALAXY J4 lắp sim số 0566519963 và số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng). Tạm giữ khoản tiền trên để đảm bảo thi hành án.
+ Bị cáo N D T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu trắng gắn sim số 0973195064; 01 (một) ví giả da màu nâu và số tiền 10.520.000 đồng (Mười triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng). Tạm giữ khoản tiền trên để đảm bảo thi hành án.
+ Bị cáo Đ N T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A51 màu xanh lắp sim số 0981242986 và 0382512219; 01 (một) ví giả da màu nêu và số tiền 8.440.000 đồng (Tám triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng). Tạm giữ khoản tiền trên để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.
+ Bị cáo T V N: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR màu hồng lắp sim số 0972613701 và số tiền 7.600.000 đồng (Bảy triệu sáu trăm nghìn đồng). Tạm giữ khoản tiền trên để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.
+ Bị cáoH M T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu vàng lắp sim số 0971359757; 01 (một) ví giả da màu nâu và số tiền 35.000 đồng (ba mươi lăm nghìn đồng). Tạm giữ khoản tiền trên để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.
+ Bị cáo N T K: 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax lắp sim số 0984227459 và số tiền 15.680.000 đồng (Mười lăm triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng). Tạm giữ khoản tiền trên để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.
+ Bị cáo Bị cáo P N H: 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Iphone XS màu vàng lắp sim số 0962333083.
+ Bị cáo N M T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax lắp sim số 0385135189; 01 (một) ví giả da màu đen và số tiền 8.600.000 đồng (Tám triệu sáu trăm nghìn đồng). Tạm giữ khoản tiền trên để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.
+ Bị cáo N M H: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen lắp sim số 0975034617 và số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Tạm giữ khoản tiền trên để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.
+ Bị cáo Đ M H: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus lắp sim số 0988920754.
+ Bị cáo N Đ N: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno 4 màu đen lắp sim số 0982195685 và số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng). Tạm giữ khoản tiền trên để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.
+ Anh Hoàng Xuân Trường 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi K30 5G màu xanh gắp sim số 0862106405.
+ Anh Phùng Trung Hiếu 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu xanh lắp sim số 0385135189.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/8/2022).
Các khoản tiền thu giữ của các bị cáo hiện đang tạm giữ tại tài khoản tạm giữ số 3949.0.1053892.00000 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Phù Ninh mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Phù Ninh.
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) chiếc bát sứ màu trắng phía dưới đáy bát có chữ “LOHACO”, miệng bát có hai vết sứt mẻ; 01 (một) chiếc đĩa sứ màu trắng đường kính 18,3 cm, lòng đĩa có nhiều vết ố bẩn; 04 (bốn) quân vị hình tròn, một mặt màu trắng, một mặt màu xanh đường kính mỗi quân vị 02 cm; 01 (một) chiếc đục bằng kim loại hình trụ tròn có chiều dài 13,0 cm, một đầu bằng có đường kính 2,3 cm, một đầu khoét rỗng có đường kính 2,0 cm.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/8/2022).
* Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Những Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tội đánh bạc số 34/2022/HS-ST
Số hiệu: | 34/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phù Ninh - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về