Bản án về tội đánh bạc số 330/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 330/2021/HS-PT NGÀY 29/10/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hình sự phúc thẩm thụ lý số: 222/2021/TLPT-HS ngày 26 tháng 5 năm 2021, đối với các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2021/HS-ST ngày 13/4/2021 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Vũ Đức H; Sinh năm 1982, tại tỉnh Ninh Bình; Hộ khẩu thường trú: Số X, Tổ 46E, Khu phố 4, phường H, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Nhà không số, Tổ N, Khu phố 3, phường H, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Buôn bán; Con ông Vũ H và bà Bùi Thị T; Có vợ: Lê Thị Ánh Ch và 02 con, lớn sinh năm: 2010, nhỏ sinh năm: 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” - Có mặt.

2. Bùi Minh S; Sinh năm 1977, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: Số X, đường Trương Văn T, Tổ 15C, Khu phố 4, phường H, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Bùi Hải Đ và bà Đỗ Thị Th; Có vợ Trần Thị Mỹ Ch và 02 con, lớn sinh năm: 2011, nhỏ sinh năm: 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” - Có mặt.

3. Vũ Quang V; Sinh năm 1986, tại tỉnh Ninh Bình; Hộ khẩu thường trú: Số X, đường C, Phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Vũ Đình Ch và bà Vũ Thị C; Có vợ: Lã Thị Ve và 01 con, sinh năm: 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” - Có mặt.

4. Trần Huy B; Sinh năm 1986, tại tỉnh Thái Bình; Hộ khẩu thường trú: Thôn Năng N, xã Tr, huyện K, tỉnh Thái Bình; Chỗ ở: Phòng X, nhà trọ A, Số 31/3C, đường S, Tổ 52, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:12/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Trần Văn Q và bà Trịnh Thị D; Có vợ:

Ngyễn Thị Bé Ch và 01 con, sinh năm: 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” - Có mặt.

Người bào chữa:

Bà Lê Thị Ngọc Hân là Luật sư Công ty Luật TNHH MTV Lê Bùi, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Bùi Minh Sang – Có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Thanh Tú và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Nguyễn Gia Mạnh, Trần Ngọc Lâm Giang không kháng cáo, không bị kháng nghị nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 15 phút, ngày 08/8/2020, đội Cảnh sát hình sự Công an Quận 12 phối hợp cùng Công an phường Hiệp Thành, Quận 12 kiểm tra tại quán cà phê không tên địa chỉ: Nhà không số, đường D5, Tổ 31, Khu phố 3, phường Hiệp Thành, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh do Vũ Đức H làm chủ phát hiện các đối tượng Bùi Minh S, Trần Huy B, Vũ Quang V và Nguyễn Thanh T đang đánh bạc dưới hình thức bài “Phỏm” thắng thua bằng tiền, thu giữ số tiền dùng để đánh bạc là 6.260.000 đồng và 01 bộ bài tây 52 lá. Cách thức chơi bài là dùng bộ bài tây 52 lá chia cho 04 tụ bài, mỗi tụ 09 lá bài, người đánh đầu tiên được chia 10 lá bài (người thắng ở ván trước). Sau khi chia xong thì các tụ bắt đầu đánh 04 lượt bài. Khi kết thúc 04 lượt bài thì các tụ bắt đầu so sánh bài để phân thắng, thua, người về nhất sẽ thắng 03 tụ còn lại, người về nhì sẽ thua số tiền 20.000 đồng, người về ba sẽ thua số tiền 40.000 đồng, người về cuối sẽ thua số tiền 80.000 đồng, nếu ván bài có người “Ù” thì 03 tụ còn lại, mỗi người thua phải bỏ ra số tiền 100.000 đồng, đồng thời người “Ù” phải bỏ ra số tiền xâu 50.000 đồng để đưa cho Hà là chủ quán nước để thanh toán nước và tiền bài, nếu dư thì Hà được hưởng nên đưa về trụ sở Công an phường Hiệp Thành, Quận 12 lập biên bản phạm tội quả tang. Quá trình điều tra các đối tượng khai nhận như sau:

1. Vũ Đức H là chủ quán cà phê không tên, đường D5, Tổ 31, Khu phố 3, phường Hiệp Thành, Quận 12 đồng ý cho các đối tượng Bình, Sanh, Vinh và Tú đánh bạc thắng thua bằng tiền tại quán của bị cáo để bán nước giải khát cho nhiều người, Hà là người đưa bài tây 52 lá để các đối tượng sử dụng để đánh bạc. Hà khai nhận đã cho các đối tượng đến quán cà phê của mình đánh bạc thắng thua bằng tiền từ ngày 02/8/2020, những người đến tham gia đánh bạc dưới hình thức bài “Phỏm” tự quy định với nhau số tiền ăn thua từ 20.000 đồng đến 80.000 đồng, người nào “Ù” thì sẽ bỏ ra số tiền 50.000 đồng, khi kết thúc việc đánh bạc các bị can sẽ dùng số tiền này đưa cho Hà để thanh toán tiền nước uống, hút thuốc và tiền bài, nếu dư thì Hà hưởng còn nếu thiếu các con bạc sẽ tự góp tiền để thanh toán cho Hà. Số tiền Hà thu lợi bất chính từ ngày 02/8/2020 đến ngày bị phát hiện được khoảng 200.000 đồng. Ngày 08/8/2020 Hà chưa thu tiền “Xâu” thì bị Công an quận 12 phát hiện bắt quả tang.

2. Bùi Minh S khai khi tham gia đánh bạc tại quán cà phê không tên, đường D5, Tổ 31, Khu phố 3, Phường Hiệp Thành, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đem theo số tiền 1.850.000 đồng để đánh bạc. Trong quá trình đánh bạc, Sang thua số tiền 300.000 đồng và bỏ ra số tiền 50.000 đồng do có “Ù” một ván bài, Sang giữ của Vinh số tiền 50.000 đồng do Vinh có “Ù” một ván bài sau khi kết thúc đánh bạc để thanh toán tiền nước và tiền “Xâu” cho Hà. Tại thời điểm bị bắt quả tang đã thu giữ của Sang số tiền 1.600.000 đồng.

3. Vũ Quang V khai tham gia đánh bạc tại quán cà phê không tên, địa chỉ đường D5, Tổ 31, Khu phố 3, Phường Hiệp Thành, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh có đem theo số tiền 970.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc. Trong quá trình đánh bạc, Vinh không thắng, không thua, Vinh có đưa cho Sang số tiền 50.000 đồng do có “Ù” một ván bài để sau khi kết thúc đánh bạc để thanh toán tiền nước và tiền “Xâu” cho Hà. Tại thời điểm bắt quả tang đã thu giữ số tiền 920.000 đồng.

4. Trần Huy B khai tham gia đánh bạc tại quán địa chỉ đường D5, Tổ 31, Khu phố 3, Phường Hiệp Thành, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đem theo số tiền 2.800.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc. Trong quá trình đánh bạc, Bình thắng số tiền 520.000 đồng. Tại thời điểm bắt quả tang đã thu giữ số tiền 3.320.000 đồng.

5. Nguyễn Thanh T khai nhận T đem theo số tiền 520.000 sử dụng hết để đánh bạc. Trong quá trình đánh bạc Tú có đi vệ sinh và nhờ Nguyễn Gia Mạnh đánh hộ một ván, Mạnh không được hưởng lợi gì, tiền thắng thua là do Tú trả, còn Mạnh không biết tại quán cà phê địa chỉ đường D5, tổ 31, Khu phố 3, Phường Hiệp Thành, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Thời điểm bị Công an bắt quả tang thu giữ số tiền dùng để đánh bạc của Tú là 420.000 đồng, do trong lúc đánh bạc Tú thua 100.000 đồng.

6. Nguyễn Gia Mạnh khai có đến quán cà phê không tên, địa chỉ đường D5, tổ 31, Khu phố 3, Phường Hiệp Thành, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh uống cà phê tại đây do quen biết Tú từ trước nên khi Tú nhờ cầm hộ một ván bài cho Tú đi vệ sinh thì Mạnh đồng ý. Trong lúc đánh hộ Tú không được hưởng lợi gì, tiền thắng thua trong lúc đánh bạc là do Tú trả, nên không đủ căn cứ xử lý Mạnh về hành vi đánh bạc.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 12, Vũ Đức H, Bùi Minh S,Vũ Quang V, Trần Huy B, Nguyễn Thanh Tú đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bị cáo Vũ Đức Hà còn khai nhận từ ngày 02/8/2020 đã đồng ý cho người vào uống nước đánh bài tại quán để bán được nhiều nước từ đó thu được lợi nhuận nhiều, nhưng ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác, nên không có cơ sở để xử lý.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2021/HSST ngày 13/4/2021 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Vũ Đức H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án;

Xử phạt bị cáo Bùi Minh S 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án;

Xử phạt bị cáo Vũ Quang V 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án;

Xử phạt bị cáo Trần Huy B 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án;

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên xử đối với bị cáo Nguyễn Thanh Tú và tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/4/2021 bị cáo Vũ Đức H có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo, ngày 26/4/2021 bị cáo Bùi Minh S có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo. Ngày 22/4/2021 các bị cáo Trần Huy B, Vũ Quang V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Vũ Đức H khai: Do quán cà phê của bị cáo gần công ty Logistic Viettel, nên công nhân và lái xe của Công ty thường vào uống nước tại quán của bị cáo. Khoảng từ ngày 02/8/2020 có một số người vào uống nước nhờ bị cáo mua bộ bài tây 52 lá để chơi đánh bài ghi điểm, ai thua thì phải trả tiền mua bài, tiền thuốc lá và nước uống, số tiền 200.000 đồng là tiền bị cáo được lời khi bán nước và thuốc lá cho người chơi bài. Ngày 08/8/2020 các bị cáo Bình, Sang, Vinh, Tú vào quán của bị cáo kêu nước uống và chơi đánh bài. Việc chơi đánh bài “phỏm” ăn thua bằng tiền, cách thức chơi, ăn thua là do các bị cáo trên tự quy định với nhau, ai có nhu cầu uống nước, thuốc lá thì kêu bị cáo mang tới, cuối buổi mới thanh toán tiền cho bị cáo.

Các bị cáo Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B, khai nhận các bị cáo là lái xe cho công ty Logistic Viettel. Sáng ngày 08/8/2020 trong lúc chờ giao xe các bị cáo vào quán cà phê của bị cáo Hà để uống nước, sau đó cùng rủ nhau đánh bài phỏm ăn tiền đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã xét xử. Các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo. Các bị cáo Trần Huy B, Vũ Quang V thay đổi yêu cầu kháng cáo, xin được hưởng án treo.

Không bị cáo nào có ý kiến tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng cả bốn bị cáo đều xin Hội đồng xét xử cho hưởng án treo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm xét xử vụ án: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy bản án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 , khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Mức án 01 năm tù đối với bị cáo Hà mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử là tương xứng với t ính ch ất mức đ ộ hành vi phạm tội c ủa bị cáo bởi vì bị cáo là người có vai trò chủ mưu cầm đầu, cần phải xử lý nghiêm, nên không đồng ý cho bị cáo được hưởng án treo. Đối với các bị cáo Bình, Sang, Vinh, mức án 09 tháng tù cấp sơ thẩm đã tuyên xử đối với mỗi bị cáo là có phần nghiêm khắc, bởi vì các bị cáo tham gia đánh bạc với số tiền không lớn, có nhân thân tốt, có nghề nghiệp và nơi cư trú rõ ràng, nên không cần bắt các bị cáo phải chịu hình phạt tù giam mà cho các bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách nhất định cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với các bị cáo.

Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận kháng cáo của 03 bị cáo Bùi Minh S, Vũ Quang V và Trần Huy B, sửa bản án sơ thẩm, cho các bị cáo được hưởng án treo; Không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Vũ Đức H, giữ nguyên mức hình phạt 01 năm tù bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Vũ Đức H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản án sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo, qua đó đã có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 08 giờ 15 phút ngày 08/8/2020 các bị cáo Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B và Nguyễn Thanh Tú cùng nhau tham gia đánh bạc dưới hình thức đánh “Phỏm” tại quán cà phê không tên đường D5, tổ 31, khu phố 3, phường Hiệp Thành, Quận 12 do bị cáo Vũ Đức H làm chủ. Cách thức chơi bài là dùng bộ bài tây 52 lá chia cho 04 tụ bài, mỗi tụ 09 lá bài, người đánh đầu tiên được chia 10 lá bài. Sau khi chia xong thì các tụ bắt đầu đánh 04 lượt bài. Khi kết thúc 04 lượt bài thì các tụ bắt đầu so sánh bài để phân thắng, thua, người về nhất sẽ thắng 03 tụ còn lại, người về nhì sẽ thua số tiền 20.000 đồng, người về ba sẽ thua số tiền 40.000 đồng, người về cuối sẽ thua số tiền 80.000 đồng. Nếu ván bài có người “Ù” thì 03 tụ còn lại, mỗi người thua phải bỏ ra số tiền 100.000 đồng chung cho người có bài “Ù”, đồng thời người “Ù” phải bỏ ra số tiền xâu 50.000 đồng để đưa cho Hà để trả tiền nước uống, hút thuốc và tiền bài, nếu dư thì Hà hưởng còn nếu thiếu các con bạc sẽ tự góp tiền để thanh toán cho Hà.

Khi tham gia đánh bạc, bị cáo Bùi Minh S đem theo số tiền 1.850.000 đồng, Vũ Quang V đem theo 970.000 đồng, Trần Huy B đem theo 2.800.000 đồng, Nguyễn Thanh Tú đem theo 520.000 để đánh bạc, đến khoảng 09 giờ 15 phút cùng ngày thì bị đội Cảnh sát hình sự Công an Quận 12 phối hợp cùng Công an phường Hiệp Thành, Quận 12 phát hiện bắt quả tang và thu giữ tại chiếu bạc 6.260.000 đồng (trong đó của Bùi Minh S 1.600.000 đồng, Vũ Quang V 920.000 đồng, Trần Huy B 3.320.000 đồng và Nguyễn Thanh Tú 420.000 đồng).

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo Vũ Đức H 01 năm tù, Bùi Minh S 09 tháng tù,Vũ Quang V 09 tháng tù, Trần Huy B 09 tháng tù và Nguyễn Thanh Tú 06 tháng tù Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S,Vũ Quang V, Trần Huy B làm đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo. Các bị cáo Trần Huy B, Vũ Quang V thay đổi yêu cầu kháng cáo, xin được hưởng án treo. Xét thấy tại phiên tòa phúc thẩm 02 bị cáo Trần Huy B và Vũ Quang V thay đổi yêu cầu kháng cáo là có căn cứ, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, nên được xem xét giải quyết, xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

Các bị cáo Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B, đã thực hiện hành vi đánh bài được thua bằng tiền theo hình thức bài “Phỏm” với số tiền dùng để đánh bạc là 6.260.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Đối với bị cáo Vũ Đức H có hành vi đồng ý cho 04 bị cáo Sang, Vinh, Bình, Tú chơi đánh bạc ăn thua bằng tiền với số tiền dùng vào việc đánh bạc là 6.260.000 đồng, tại quán cà phê do bị cáo làm chủ, ngoài ra bị cáo còn cung cấp bài cho các bị cáo tham gia đánh bài nhằm mục đích thu tiền lời từ việc bán nước uống, thuốc hút cho các đối tượng chơi bài. Mục đích thu tiền xâu của bị cáo Hà là không rõ ràng, bởi vì các bị cáo Sang, Bình, Vinh đều khai trong khi chờ giao xe, các bị cáo vào quán của bị cáo Hà uống nước rồi rủ nhau chơi đánh bài “phỏm” ăn thua bằng tiền, cách thức chơi, ăn thua cũng như thu tiền của những người có bài “Ù” để dồn lại, đến cuối buổi chơi bài mới thanh toán tiền nước cho bị cáo Hà, nếu thiếu thì các bị cáo bù vào cho đủ, nếu thừa thì Hà được hưởng, là do các bị cáo trên tự quy định với nhau. Hành vi của bị cáo Hà có dấu hiệu của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, tuy nhiên do hành vi của bị cáo chưa đến mức xử lý về tội danh này, nhưng bị cáo Hà phải chịu trách nhiệm là đồng phạm với các bị cáo trong nhóm đánh bạc với vai trò là người giúp sức. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Vũ Đức H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có cơ sở.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi các bị cáo vẫn cố ý phạm tội, nên cần phải có hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hà 01 năm tù; xử phạt bị cáo Sang 09 tháng tù; xử phạt bị cáo Vinh 09 tháng tù và xử phạt bị cáo Bình 09 tháng tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Hà, Sang, Vinh, Bình xuất trình các tài liệu chứng cứ mới thể hiện:

Bị cáo Hà là lao động chính (có xác nhận của chính quyền địa phương), bị cáo còn có ông ngoại Bùi Văn Tuy, ông nội Vũ Đức Khuê và bố đẻ Vũ Hồng là người có công với nước, được tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương, bằng khen do có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng bảo vệ tổ quốc. Sau khi cấp sơ thẩm xét xử, bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phạt bổ sung theo bản án sơ thẩm đã tuyên.

Bị cáo Sang có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính (có xác nhận của chính quyền địa phương), bị cáo có bố mẹ ruột là ông Bùi Hải Đường và bà Trương Thị Thọ là người có công với nước, được tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến do có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bản thân bị cáo đang phải điều trị bệnh tiểu đường. Sau khi cấp sơ thẩm xét xử, bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phạt bổ sung theo bản án sơ thẩm đã tuyên.

Bị cáo Vinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính (có xác nhận của chính quyền địa phương), bị cáo còn có ông ngoại Vũ Văn Vượng, ông nội Vũ Văn Tràng là người có công với nước, được tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến do có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau khi cấp sơ thẩm xét xử, bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phạt bổ sung theo bản án sơ thẩm đã tuyên.

Bị cáo Bình có thời gian tương đối dài 12 năm 04 tháng phục vụ trong quân ngũ, trước khi được về phục viên. Bị cáo đã được tặng thưởng danh hiệu Huy chương Chiến sĩ vẻ vang trong thời gian tại ngũ.

Đây là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng chưa được xem xét ở cấp sơ thẩm.

Xét thấy các bị cáo Vũ Đức Hà, Bùi Minh S,Vũ Quang V, Trần Huy B là những người có nhân thân tốt , có nhiều tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết tăng nặng, bản thân các bị cáo là lao động chính trong gia đình, có nghề nghiệp và nơi cư trú rõ ràng ổn định, trong thời gian được tại ngoại không có hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, không cần thiết bắt các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho các bị cáo được hưởng án treo, với thời gian thử thách nhất định cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với các bị cáo và đảm bảo công tác đấu tranh, phòng ngừa chung.

Lập luận trên đây là cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm về việc chấp nhận kháng cáo, cho các bị cáo Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B được hưởng án treo. Cũng là cơ sở để Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc bác kháng cáo, giữ y án sơ thẩm đối với bị cáo Vũ Đức H.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, theo qui định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B. Sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo.

Tuyên bố các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B phạm tội “Đánh bạc”.

+ Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Vũ Đức H 01 (một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo Vũ Đức H về cho Ủy ban nhân dân phường Hiệp Thành, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

+ Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Bùi Minh S 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo Bùi Minh S về cho Ủy ban nhân dân phường Hiệp Phú, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

+ Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Vũ Quang V 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo Vũ Quang V về cho Ủy ban nhân dân Phường 15, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

+ Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Huy B 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo Trần Huy B về cho Ủy ban nhân dân phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B, không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

(Đã giải thích chế định về án treo đối với các bị cáo Vũ Đức H, Bùi Minh S, Vũ Quang V, Trần Huy B).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 330/2021/HS-PT

Số hiệu:330/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về