TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 30/2022/HS-PT NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 33/2022/TLPT-HS ngày 09 tháng 3 năm 2022, đối với các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2021/HSST ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc.
Bị cáo có kháng cáo:
1. Họ và tên: Lê Quang L, sinh ngày 24 tháng 3 năm 1979; nơi cư trú: Thôn K, xã Đ, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Không, quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Q và bà Trần Thị L1; có vợ là Lưu Thị H và có 04 con (lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2015); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/6/2021 đến ngày 10/6/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại, “có mặt”.
2. Họ và tên: Khổng Văn T, sinh ngày 03 tháng 9 năm 1984; nơi cư trú: Thôn C1, xã C, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Khổng Xuân T1 và bà Đỗ Thị M; có vợ là Nguyễn Thị H1 và có 03 con (lớn nhất sinh năm 2005 và nhỏ nhất sinh năm 2018); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/6/2021 đến ngày 10/6/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại, “có mặt”.
Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Kiều Văn N, Trần Văn H2, Lưu Quang T3, Kiều Quang H3, Kiều Trường L, Dương Đức M1, Khổng Văn C1 không có kháng cáo, không bị kháng N nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 07/6/2021, Lê Quang L, Lưu Quang T3, Khổng Văn T, Kiều Văn N, Kiều Quang H3, Kiều Trường L, Khổng Văn C1, Dương Đức M1 ngồi uống nước tại quán hàng ăn của gia đình anh Trần Văn H4 (khi này gia đình anh H4 đi vắng không ai trông nhà) ở Thôn K, xã Đ, huyện S. Quán anh H4 giáp ranh với quán may quần áo của nhà Trần Văn H2 (là anh trai Hưng). Trong lúc đang ngồi uống nước, L nói “anh em mình làm tí” ý là rủ đánh bạc thì các đối tượng đồng ý. Khi này H3 đang đứng ở cửa quán may quần áo nhà mình, L đi đến hỏi H3 cho mượn nhà ngồi đánh bạc và được H3 đồng ý. Cả nhóm thống nhất khi nào đánh bạc xong ai thắng (được lãi tiền) thì sẽ cho H3 tiền theo tuỳ ý. Sau đó L quay lại lấy 01 đĩa sứ và 02 bát sứ ở quán nhà anh H4 rồi cùng cả nhóm đi vào trong quán may quần áo nhà H3, H3 sợ vợ đi làm về biết sẽ chửi nên đóng khoá cửa quán lại rồi ra bên ngoài làm việc riêng. Khi vào trong, L lấy chiếc kéo tại quán nhà H3 cắt 04 quân vị từ vỏ bao thuốc lá Thăng Long để làm công cụ phương tiện rồi cùng mọi người ngồi lên các tấm xốp nỉ thống nhất đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa, mức đặt cửa thấp nhất là 50.000 đồng và cao nhất tuỳ ý, N là người xóc cái đầu tiên cho mọi người đánh bạc. N cho 04 quân vị vào trong bộ bát đĩa để xóc, các đối tượng còn lại chia làm hai bên chẵn - lẻ, khi người cầm cái mở bát ra thấy có 02 hoặc 04 quân bạc cùng màu thì bên chẵn thắng và bên lẻ thua, ngược lại nếu thấy có 01 hoặc 03 quân bạc cùng màu thì bên lẻ thắng và bên chẵn thua. Cả nhóm đánh bạc được một lúc thì N chuyển cho T xóc cái để các đối tượng đánh bạc tiếp, đến khoảng 11 giờ cùng ngày thì bị lực lượng Công an huyện S phát hiện bắt quả tang Lê Quang L, Lưu Quang T3, Khổng Văn T, Kiều Văn N, Kiều Quang H3, Kiều Trường L, Dương Đức M1 và Trần Văn H2. Khi thấy lực lượng Công an đến các đối tượng đã hoảng loạn bỏ chạy làm chiếc đĩa sứ rơi xuống đất bị vỡ thành nhiều mảnh và làm rơi 03 quân vị xuống ao nhà H3; còn Khổng Văn C1 lợi dụng sơ hở đã bỏ trốn khỏi hiện trường.
Vật chứng thu giữ tại chiếu bạc gồm: số tiền 11.990.000 đồng; 02 bát sứ;
01 đĩa sứ bị vỡ nhiều mảnh; 01 chiếc kéo kim loại; 01 quân vị và 12 tấm xốp nỉ.
Ngày 13/6/2021, Cơ quan điều tra triệu tập Cường đến làm việc, Cường đã khai nhận rõ việc tham gia đánh bạc cùng nhóm của L và tự nguyện giao nộp số tiền 250.000 đồng sử dụng đánh bạc ngày 07/6/2021.
Quá trình điều tra xác định, khi đánh bạc Lê Quang L có số tiền là 3.500.000đồng; Khổng Văn T 4.500.000đồng; Lưu Quang T3 3.000.000đồng; Kiều Quang H3 400.000đồng; Kiều Văn N 370.000đồng; Khổng Văn C1 250.000đồng; Kiều Trường L 120.000đồng; Dương Đức M1 100.000đồng. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào đánh bạc là 12.240.000đồng.
Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 64/2021/HSST ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Lê Quang L, Khổng Văn T, Kiều Văn N, Trần Văn H2, Lưu Quang T3, Kiều Quang H3, Dương Đức M1, Kiều Trường L, Khổng Văn C1 phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T.
Xử phạt bị cáo Lê Quang L 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Thời gian tạm giữ từ ngày 07/6/2021 đến ngày 10/6/2021 được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. Phạt bổ sung 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.
Xử phạt bị cáo Khổng Văn T 11 (Mười một) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Thời gian tạm giữ từ ngày 07/6/2021 đến ngày 10/6/2021được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. Phạt bổ sung 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, bản án còn quyết định hình phạt đối với các bị cáo đồng phạm khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 17 tháng 12 năm 2021, các các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Lý do kháng cáo: Các bị cáo phạm tội lần đầu, đều có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình, đang nuôi bố mẹ già, con nhỏ thường xuyên đau ốm.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu quan điểm, phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiện hình sự đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2021/HSST ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng giữ nguyên hình phạt tù nhưng cho các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T làm trong hạn luật định, hợp lệ được xem xét giải quyết.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã T hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì, do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã T hiện đều hợp pháp.
[3] Về nội dung: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai những người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, số tiền thu được của các bị cáo dùng vào việc phạm tội và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được cơ quan điều tra thu thập khách quan, đúng pháp luật. Từ đó có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 07/6/2021, tại quán may quần áo của nhà Trần Văn H2 ở Thôn K, xã Đ, huyện S, Vĩnh Phúc, Công an huyện S phát hiện bắt quả tang Lê Quang L, Khổng Văn T, Kiều Văn N, Lưu Quang T3, Kiều Quang H3, Khổng Văn C1, Kiều Trường L và Dương Đức M1 có hành vi đánh bạc với nhau bằng hình thức “xóc đĩa” ăn tiền với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 12.240.000đồng.
[3] Căn cứ vào lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy cấp sơ thẩm điều tra, truy tố, xét xử xử các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Xét kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của các bị cáo Phạm Dương Sự, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, các bị cáo tụ tập đánh bạc gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải xử lý các bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Với vai trò, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và quyết định mức hình phạt 01 năm tù đối với bị cáo Lê Quang L và 11 tháng tù đối với bị cáo Khổng Văn T là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, do đó kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trong nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo cung cấp tài liệu, chứng cứ mới là Biên lại tự nguyện nộp án phí và hình phạt bổ sung thể hiện sự ăn năn hối lỗi; xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Đức Bác, huyện S đối với bị cáo Lê Quang Long và xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Cao Phong đối với bị cáo Khổng Văn T về hoàn cảnh gia đình khó khăn, các bị cáo trực tiếp chăm sóc bố mẹ già và các con nhỏ, vợ các bị cáo không có công việc ổn đinh, nên đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do các bị cáo được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào, có nhân thân tốt nên đáng được hưởng khoan hồng của pháp luật và có đủ điều kiện để hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T, sửa bản án sơ thẩm theo hướng cho các bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định và giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú giám sát, giáo dục như đề nghị của Viện kiểm sát là đủ để răn đe và phòng ngừa chung, cũng như tạo điều kiện giúp các bị cáo có cơ hội tự cải tạo, sửa chữa sai lầm để trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng N đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng N.
[6] Về án phí: Do kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015;
Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T, sửa bản án sơ thẩm số 64/2021/HSST ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc về hình phạt.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lê Quang L 01 (Một) năm tù cho hưởng án treo, thử thách 02 (Hai) năm, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Xử phạt bị cáo Khổng Văn T 11 (Mười một) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm..
Giao bị cáo Lê Quang L cho Ủy ban nhân dân xã Đức Bác; bị cáo bị cáo Khổng Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Cao Phong, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì T hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về án phí: Các bị cáo Lê Quang L và Khổng Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng N đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng N.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội đánh bạc số 30/2022/HS-PT
Số hiệu: | 30/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về