Bản án về tội đánh bạc số 27/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Vào lúc 07 giờ 00 phút, ngày 10 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2022/TLST-HS, ngày 09 tháng 3 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số:

10/2022/HSST-QĐ, ngày 19/4/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2022/HSST- QĐ, ngày 25/4/2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Võ Thị A; sinh ngày 03/4/1994 tại huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn H, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không; con ông Võ Tá T và bà Phạm Thị Minh N; chồng:

Phan Văn T1; con 02 con (lớn nhất sinh năm 2016, đứa út sinh năm 2019); anh chị em ruột có 05 người, bị cáo là con thứ 03; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt hành chính số 972 ngày 23/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H xử phạt A 15.000.000 đồng về hành vi làm chủ số lô, số đề vào ngày 16/12/2021(trong vụ án Nguyễn Xuân S cùng đồng phạm phạm tội Đánh bạc). Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 22/12/2021 tại xã S, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Trường L; sinh ngày 26/4/1979 tại huyện H, tỉnh Hà Tĩnh;

nơi cư trú: Thôn M, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Đức K (Đã chết) và bà Hoàng Thị T; vợ: Nguyễn Thị H; con: 01 con (sinh năm 2005); tiền án: Tại Bản án số 44/HSST ngày 25/9/2007, Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 16 năm tù giam về tội Cướp tài sản, Trộm cắp tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm đ khoản 2 điều 133; điểm b,e khoản 2 điều 138; khoản 1 điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/3/2020, chưa chấp hành xong phần bồi thường dân sự;

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt hành chính số số 44 ngày 21/02/2022 của Công an huyện H xử phạt L 200.000 đồng về hành vi đánh bạc vào ngày 15/12/2021(trong vụ án Võ Tá T phạm tội Đánh bạc).

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 22/12/2021 tại xã S, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong tháng 12/2021, Võ Thị A, sinh năm 1994, trú tại thôn H, xã S, huyện H đã có hành vi đứng ra làm chủ bán số lô, số đề bằng hình thức gửi tin nhắn qua ứng dụng Zalo được cài đặt trong máy điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng, gắn sim số 03695695B với tên tài khoản “A”. Sau khi có kết quả mở thưởng xổ số kiến thiết miền Bắc vào lúc 18 giờ 15 phút hàng ngày, A tính toán số tiền thắng, thua rồi thanh toán tiền cho người mua. Về hình thức bán số lô, số đề được A quy ước như sau:

Lấy hai chữ số cuối cùng của giải thưởng xổ số Miền Bắc hàng ngày tính là số lô, một điểm lô tương ứng với số tiền mua là 20.000 đồng, nếu trúng một điểm lô được nhận số tiền là 70.000 đồng, nếu trúng nhiều lần sẽ nhận được tương ứng cấp số nhân với số lần trúng của một lần (không tính quá ba lần). Đối với lô xiên người mua sẽ chọn ít nhất hai hoặc ba số lô, tỷ lệ được thua 1/10, 1/40. Đối với số đề thì lấy hai số cuối cùng của giải đặc biệt để tính trúng thưởng, tỷ lệ được thua 1/70. Đối với đề ba càng thì lấy ba số cuối cùng của giải đặc biệt để tính trúng thưởng, tỷ lệ được thua 1/300.

Ngày 16/12/2021, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chổ ở của Võ Tá T, sinh năm 1963, trú tại thôn L, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh về hành vi mua bán số lô, số đề của T. Quá trình khám xét có Nguyễn Trường L, sinh năm 1979, trú tại thôn H, xã S có mặt. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng chức năng kiểm tra trong người L, thì phát hiện có một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max, màu xanh, nên yêu cầu L mở ra kiểm tra. Lúc này, L cung cấp mật khẩu vào máy là 199179 và gắn sim số 0862.833.9B. Lực lượng chức năng kiểm tra tại phần tin nhắn ứng dụng Zalo với tên đăng nhập “Trường L” có nội dung tin nhắn đánh số lô, số đề với tài khoản Zalo có tên “coi thường người khác quá”. Nguyễn Trường L khai nhận đó là tin nhắn đánh số lô, số đề với Võ Thị A, sinh năm 1994, trú tại thôn H, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh, nên Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong thu giữ chiếc điện thoại nói trên đồng thời triệu tập Nguyễn Trường L và Võ Thị A đến làm việc.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã chứng minh được ngày 16/12/2021, Võ Thị A, sử dụng điện thoại Iphone 6 màu trắng, gắn sim số 03695695B đăng ký tài khoản Zalo với tên “A” (đối với chiếc điện thoại này, sau khi bị phát hiện, A đã vứt chiếc điện thoại này trên khu vực cầu N thuộc thôn H, xã S, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thấy) nhắn tin với tài khoản Zalo Nguyễn Trường L có tên “Trường L” qua số điện thoại 08628339B để bán số lô, số đề, cụ thể như sau:

- Số lô 26,95,97 mỗi số 50 điểm, tương ứng số tiền 3.000.000 đồng; số đề ba càng 326 với 200.000 đồng. Tổng số tiền mua, bán các số đề và lô là 3.200.000 đồng. Căn cứ kết quả mở thưởng của Công ty xổ số kiến thiết miền Bắc ngày 16/12/2021, L trúng số lô 26,97 mỗi số 50 điểm, tương ứng số tiền là 7.000.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc của Anh và L là 10.200.000 đồng (số tiền này 02 bên chưa thanh toán cho nhau).

* Vật chứng vụ án:

- Vật chứng thu giữ đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện H gồm:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh dương, gắn sim số 0862.833.9B, thu giữ của Nguyễn Trường L .

Tại bản Cáo trạng số: 23/CT-VKS-HS, ngày 07/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố các bị cáo Võ Thị A, Nguyễn Trường L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17;

Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Võ Thị A mức án từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; tiết đầu điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường L mức án từ 09 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

* Hình phạt bổ sung: Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 321, điểm e khoản 2 Điều 32, khoản 2 Điều 35 bộ luật hình sự xử phạt tiền các bị cáo Võ Thị A, Nguyễn Trường L từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam.

* Biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự truy thu số tiền do các bị cáo thu lợi bất chính do phạm tội mà có đối với các bị cáo như sau: Truy thu của Võ Thị A số tiền 7.000.000 đồng; truy thu của Nguyễn Trường L số tiền 3.200.000 đồng.

* Xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh dương thu giữ của Nguyễn Trường L.

- Tịch thu tiêu hủy 01 sim số 0862.833.9B thu giữ của Nguyễn Trường L.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận đầy đủ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau và những chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi các bị cáo Võ Thị A, Nguyễn Trường L đã đánh số lô, số đề với tổng số tiền là 10.200.000 đồng nên có đủ cơ sở để khẳng định các bị cáo A, L đã phạm vào tội đánh bạc. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự. Việc truy tố và xét xử các bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không có gì oan sai.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn, trật tự công cộng. Các bị cáo nhận thức được Nhà nước nghiêm cấm việc đánh bạc dưới mọi hình thức nhưng vì động cơ tư lợi nên các bị cáo vẫn thực hiện tội phạm, chứng tỏ các bị cáo liều lĩnh, bất chấp và coi thường pháp luật. Hành vi của các bị cáo làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội và gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xét xử các bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện để cải tạo giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét một cách toàn diện về nhân thân, vai trò, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

[4] Vụ án có đồng phạm nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn, không có tổ chức, cấu kết chặt chẽ. Xét vị trí, vai trò của từng bị cáo như sau:

Đối với Võ Thị A là người là người bán số lô, số đề và là người trực tiếp đánh bạc với Nguyễn Trường L. Tổng số tiền bị cáo tham gia đánh bạc là 10.200.000 đồng.

Bị cáo có nhân thân tại Quyết định xử phạt hành chính số 972 ngày 23/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H xử phạt A 15.000.000 đồng về hành vi làm chủ số lô, số đề vào ngày 16/12/2021 (trong vụ án Nguyễn Xuân S cùng đồng phạm phạm tội Đánh bạc). Hội đồng xét xử cần xét xử bị cáo A mức án nghiêm. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình nuôi 02 con nhỏ, Bị cáo có cha đẻ là thương binh hạng ¼ được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo Võ Thị A có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, việc không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hại cho xã hội. Vì vậy Hội đồng xét xử cần căn cứ Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo Võ Thị A được hưởng án treo cũng đảm bảo nghiêm.

Bị cáo Nguyễn Trường L là đồng phạm với vai trò là là người thực hành trong vụ án. Bị cáo L trực tiếp đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc là 10.200.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Trường L có 01 tiền án chưa được xóa án tích cụ thể tại Bản án số 44/HSST ngày 25/9/2007, Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt bị cáo 16 năm tù giam về tội Cướp tài sản, Trộm cắp tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm đ khoản 2 điều 133; điểm b,e khoản 2 điều 138; khoản 1 điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/3/2020, chưa chấp hành xong phần bồi thường dân sự nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại tiết đầu điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu tại Quyết định xử phạt hành chính số số 44 ngày 21/02/2022 của Công an huyện H xử phạt L 200.000 đồng về hành vi đánh bạc vào ngày 15/12/2021(trong vụ án Võ Tá T phạm tội Đánh bạc). Hội đồng xét xử cần xét xử bị cáo L mức án nghiêm và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, bị cáo có tham gia nghĩa vụ quân sự nên cần căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo Võ Thị A, Nguyễn Trường L phạm tội với mục đích tư lợi nên ngoài hình phạt chính, cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Các biện pháp tư pháp:

- Số tiền 3.200.000 đồng bị cáo Nguyễn Trường L sử dụng để thực hiện việc ghi lô đề từ bị cáo A nhưng bị cáo L chưa thanh toán số tiền này cho bị cáo A; số tiền 7.000.000 đồng bị cáo L được hưởng từ việc trúng số lô số đề từ bị cáo A nhưng bị cáo A chưa thanh toán số tiền này cho bị cáo L, đây là số tiền các bị cáo do phạm tội mà có nhưng hiện tại các bị cáo vẫn chưa giao nộp. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo A và bị cáo L thừa nhận việc các bị cáo thỏa thuận nợ tiền của nhau bằng lời nói, tuy nhiên thỏa thuận này có tính ràng buộc, vì thời gian mở thưởng và ngày các bị cáo bị bắt trong khoảng thời gian ngắn nên các bị cáo chưa thực hiện việc chuyển tiền cho nhau, nên cần truy thu sung công quỹ nhà nước.

[7] Về vật chứng vụ án:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh dương, thu giữ của Nguyễn Trường L là các công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, sung quỹ nhà nước.

- 01 Sim số 0862.833.9B thu giữ của Nguyễn Trường L và công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại Iphone 6 màu trắng, gắn sim số 03695695B là công cụ bị cáo Võ Thị A sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên quá trình điều tra cơ quan chức năng không truy tìm được chiếc điện thoại này nên hội đồng xét xử miễn xét.

[8] Về án phí: Các bị cáo Võ Thị A, Nguyễn Trường L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH 

* Về tội danh: Căn cứ vào Điều 321 Bộ luật hình sự: Tuyên bố các bị cáo Võ Thị Anh, Nguyễn Trường L phạm tội “Đánh bạc”.

* Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17;

Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Võ Thị A 11 (Mười một) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 22 (Hai mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Võ Thị A cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh trong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Võ Thị A thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho hưởng án treo.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; tiết đầu điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường L 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

* Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 3 Điều 321, điểm e khoản 2 Điều 32, khoản 2 Điều 35 bộ luật hình sự phạt bổ sung bị cáo Võ Thị A 15.000.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam; bị cáo Nguyễn Trường L 15.000.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam. Thời hạn chấp hành hình phạt tiền tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật.

* Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:

Truy thu của Võ Thị A số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam; truy thu của Nguyễn Trường L số tiền 3.200.000 đồng (Ba triệu hai trăm ngàn đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Thời hạn thi hành án tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: 01 phong bì thư đã được dán kín, bên trong có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh dương, số IMEL 1:3538981034971xx, số IMEL2: 3538981034577xx, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng, thu giữ của Nguyễn Trường L.

- Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ sim số 0862.833.9B thu giữ của Nguyễn Trường L.

(Đặc điểm vật chứng nói trên như biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/02/2022).

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử:

- Buộc các bị cáo Võ Thị A, Nguyễn Trường L mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Võ Thị A, Nguyễn Trường L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về