TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 27/2021/HSST NGÀY 14/07/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 14/7/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, Tòa án nhân dân huyện Cư Jút xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 28/2021/TLST-HS ngày 07/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:26/2021/QĐXXST-HS ngày 22/6/2021và Quyết đ ịnh hoãn phiên tòa số: 43/2021/QĐST-HS ngày 05/7/2021 đối với các bị cáo:
1. Nông Văn T; sinh năm 1993 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi cư trú: Thôn C, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Nông Văn L, s inh năm 1971 và bà Hoàng Thị T, sinh năm 1971; vợ Lý Thị N, sinh năm 1998 và 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/02/2021 đến ngày 03/03/2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Vi Văn H; sinh năm 1988 tại tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: Thôn 9, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Nông; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Vi Văn E, sinh năm 1942 (đã chết) và bà Liễu Thị N, sinh năm 1941; vợ Chu Thị X, sinh năm 1988 và 03 con (con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2012); tiền án, tiền sự: Không; b ị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/02/2021 đến ngày 03/03/2021 được áp dụng b iện pháp cấm đi khỏ i nơi cư trú, hiện đang tại ngoại; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. Vi Văn C; sinh năm 1988 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi cư trú: Thôn 5, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Vi Văn T, sinh năm 1962 và bà Lâm Thị K, sinh năm 1959; vợ Chu Thị S, sinh năm 1989 và 02 con (con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2011); tiền án, tiền sự: Không; b ị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/02/2021 đến ngày 03/03/2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏ i nơi cư trú, hiện đang tại ngoại; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
4. Đào Duy P; sinh năm 1981 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn 9, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Nông; trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Làm nông; con ông Đào Trọng C, sinh năm 1947 và bà Đỗ Thị P1, sinh năm 1948; vợ Trương Thị C, sinh năm 1987 và 02 con (con lớn s inh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2014); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/02/2021 đến ngày 03/03/2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
5. Chu Văn H1; sinh năm 1990 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi cư trú: Thôn 5, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Chu Văn P, sinh năm 1964 và con bà Liễu Thị V, s inh năm 1967; vợ Hứa Thị N, sinh năm 1993 và 02 con (con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: Không; b ị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/02/2021 đến ngày 03/03/2021 được áp dụng biện pháp cấm đ i khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
6. Liễu Văn T1; sinh năm 1973 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi cư trú: Thôn C, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Liễu Văn C (đã chết) và con bà Hoàng Thị S, sinh năm 1953; vợ Ngọc Thị S, sinh năm 1974 và 02 con, lớn nhất s inh năm 1993, nhỏ nhất s inh năm 1996; tiền án, tiền sự: Không; b ị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/02/2021 đến ngày 03/03/2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏ i nơi cư trú, hiện đang tại ngoại– Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Văn M - Vắng mặt tại phiên tòa.
Trú tại: Thôn C, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông.
- Người làm chứng:
1. Anh Hoàng Văn L, sinh năm 1987- Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Anh Lý Văn B, sinh năm 1991- Vắng mặt tại phiên tòa.
Cùng trú tại: Thôn C, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông-
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ ngày 25/02/2021, các bị cáo Nông Văn T, Liễu Văn T1 đi dự tiệc thôi nôi tại nhà anh Hoàng Văn M ở thôn C, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông. Sau khi ăn nhậu xong, đến khoảng 14 giờ cùng ngày, T đi ra phía sau vườn nhà anh Minh thì thấy một nhóm người (khoảng từ 04 đến 05 người) đang đánh bài “xóc đĩa” thắng thua bằng tiền, do một người đàn ông tóc bạc, khoảng 50 tuổ i đang ngồi làm cái. Lúc này, T vừa đi đến xem thì người này nghỉ, không làm cái nữa, do đó T tự vào làm cái thay. Trong quá trình T làm cái “xóc đĩa”, Liễu Văn T1 đi ra sau vườn và thấy đánh bạc nên cũng tự vào tham gia cùng. Đánh bạc bằng hình thức “xóc đĩa” như sau: Những người đánh ngồi thành vòng tròn, người làm cái cho bốn con vị hình tròn, được cắt từ vỏ bao thuốc lá, một mặt màu trắng, một mặt màu nâu cho vào lòng đĩa nhựa, dùng một cái chén sứ úp lên phía mặt trên và dùng hai tay cầm đĩa, chén xóc mạnh lên xuống, trái phải nhiều lần rồi đặt xuống trước mặt mình tại sòng. Các con bạc sẽ đặt cược tiền vào bên chẵn hay lẻ. Sau khi đặt cược xong thì người làm cái sẽ mở chén lên và chung chi ăn thua với hai bên. Chẵn là trường hợp khi mở chén ra có bốn con vị cùng một mặt màu trắng hoặc màu nâu hoặc có hai con vị mặt màu trắng và hai con vị mặt màu nâu. Lẻ là trường hợp khi mở chén ra trong bốn con vị có ba con vị mặt màu trắng, một con vị mặt màu nâu hoặc ngược lại. Nếu là chẵn thì người làm cái sẽ thắng người đặt bên lẻ và chung tiền cho người đặt bên chẵn hoặc ngược lại nếu là lẻ thì người làm cái thắng người đặt bên chẵn và chung tiền cho người đặt bên lẻ bằng số tiền họ đã đặt cược, sau đó bắt đầu ván chơi mới, nguyên tắc như trên. Mỗi ván, các con bạc đặt cược số tiền từ 20.000 đồng đến 300.000 đồng.
Trong khoảng thời gian từ 14 giờ 00 đến 15 giờ 00 phút cùng ngày, Vi Văn H, Chu Văn H1, Vi Văn C và Đào Duy P (đi dự tiệc đám cưới tại nhà ông Lương Văn Đ, đối d iện nhà ông M), nghe nói có đánh bài “xóc đĩa” ở nhà đối diện nên tự đi ra sau vườn nhà ông M xem, thấy mọi người đang đánh “xóc đĩa” thắng thua bằng tiền nên cũng tự mình vào tham gia. Trong quá trình T, T1, H, H1, C, P ngồ i chơi đánh bạc thì có 04 đến 05 đối tượng tham gia đánh bạc nhưng ở tư thế đứng, Hoàng Văn L và Lý Văn B đứng xem, không tham gia. Trong quá trình đánh bạc thì T là người cầm cái còn những người khác sẽ đặt cược, không có thu tiền xâu. Đến 16 giờ cùng ngày thì Công an huyện Cư Jút bắt quả tang T, T1, H, H1, C, P đang đánh bạc, giữ trên sòng bạc số tiền 5.640.000 đồng cùng các công cụ dùng vào việc đánh bạc, còn khoảng 04 đến 05 đối tượng đứng tham gia đánh bạc chạy thoát.
Vật chứng của vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện Cư Jút thu giữ gồm:
- Thu giữ trên chiếu bạc : Số tiền 5.640.000 đồng; 01 khăn trãi bàn màu đỏ, có hoa văn màu vàng, hình tròn, đường kính 1,2m; 01 chén sứ màu trắng (loại chén ăn cơm), có hoa văn màu tím; 01 đĩa nhựa hình tròn, đường kính 23cm, màu trắng có hoa văn màu xanh; 04 con vị hình tròn, mỗi con vị có một mặt màu trắng, một mặt màu nâu;
- Thu giữ trên người Vi Văn C số tiền 500.000 đồng thu giữ trên người Vi Văn H số tiền 3.000.000 đồng.
Trong quá trình điều tra đã chứng minh được số tiền thu giữ trên sòng bạc là 5.640.000 đồng, đây là số tiền các bị cáo T, T1, H, H1, C, P và một người đàn ông tóc bạc khoảng 50 tuổi (người làm cái trước T) cùng 04 đến 05 đối tượng bỏ chạy thoát khi Cơ quan Công an bắt quả tang cùng bỏ ra sử dụng vào mục đích đánh bạc, trong đó Nông Văn T sử dụng số tiền 400.000 đồng; Liễu Văn T1 sử dụng số tiền 80.000 đồng; Hoàng Văn H1 sử dụng số tiền 500.000 đồng; Vi Văn H sử dụng số tiền 600.000 đồng; Vi Văn C sử dụng số tiền 520.000 đồng; Đào Duy P sử dụng số tiền 520.000 đồng. Số tiền còn lại tại chiếu bạc là của người đàn ông tóc bạc và những đối tượng bỏ chạy thoát chưa xác định được.
Số tiền thu giữ trên người Vi Văn C 500.000 đồng là tiền của bị cáo Cồ dùng vào việc tiêu dùng cá nhân, không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Số tiền thu giữ trên người Vi Văn H 3.000.000 đồng là tiền của bị cáo H dùng vào việc mua sắm nguyên vật liệu xây chuồng heo cho gia đình, không sử dụng vào mục đích đánh bạc nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút đã ra Quyết đ ịnh xử lý vật chứng trả lại cho các bị cáo Vi Văn C, Vi Văn H.
Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tộ i như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố; các bị thừa nhận cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” là đúng, không oan.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan đ iểm truy tố hành vi của các bị cáo Nông Văn T, Liễu Văn T1, Vi Văn H, Chu Văn H1, Vi Văn C và Đào Duy P như tại bản Cáo trạng số: 29/CTr-VKS ngày 04/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút đối với các bị cáo về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự (BLHS).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố các bị cáo Nông Văn T, Liễu Văn T1, Vi Văn H, Chu Văn H1, Vi Văn C và Đào Duy P phạm tội “Đánh bạc”.
- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321; đ iểm i, s khoản 1 Đ iều 51; Đ iều 65 của BLHS, xử phạt các bị cáo Nông Văn T từ 12 tháng đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Áp dụng khoản 1 Đ iều 321; đ iểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của BLHS, xử phạt các bị cáo Vi Văn H, Chu Văn H1, Vi Văn C và Đào Duy P mỗi bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; đ iểm i, s khoản 1, khoản 2 Đ iều 51; Điều 65 của BLHS, xử phạt các bị cáo Liễu Văn T1 từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 46, Điều 47 của BLHS; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS):
- Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút ra quyết đ ịnh xử lý vật chứng số: 32 ngày 29/4/2021 trả lại cho bị cáo Vi Văn C số tiền 500.000 đồng;
trả lại cho bị cáo Vi Văn H số tiền 3.000.000 đồng;
- Đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 5.640.000 đồng các bị cáo sử dụng để đánh bạc;
- Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 khăn trải bàn màu đỏ, đường kính 1,2m; 01 chén sứ màu trắng; 01 đĩa nhựa hình tròn, đường kính 23cm; 04 con vị hình tròn là các công cụ các bị cáo sử dụng đánh bạc.
Tại phiên tòa các bị cáo không bào chữa, không tranh luận gì mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi của Điều tra viên, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với hành vi của các bị cáo, HĐXX thấy rằng: Vào khoảng từ 14 giờ đến 16 giờ ngày 25/02/2021, tại vườn nhà anh Hoàng Văn Minh ở thôn C, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông, các bị cáo Nông Văn T, Liễu Văn T1, Vi Văn H, Chu Văn H1, Vi Văn C và Đào Duy P có hành vi đánh bạc sát được thua bằng tiền dưới hình thức “xóc đĩa” thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút bắt quả tang thu giữ số tiền 5.640.000 đồng.
Các chứng cứ buộc tội và quan điểm để nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng luật nên HĐXX chấp nhận.
Vì vậy, HĐXX xét thấy có đủ căn cứ pháp lý để kết luận hành vi của các bị cáo Nông Văn T, Vi Văn H, Chu Văn H1, Vi Văn C, Đào Duy P và Liễu Văn Thị phạm tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của BLHS.
Tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”...
[3] Xét tính chất vụ án do các bị cáo gây ra là ít nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an tại địa phương. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh bạc dưới hình thức sóc đĩa sát phạt nhau thắng thua bằng tiền là vi phạm pháp luật, nhưng do động cơ vụ lợi cá nhân nên các bị cáo vẫn cố tình phạm tộ i. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tộ i của các bị cáo thì mới có tác dụng để giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.
Trong vụ án này có nhiều b ị cáo cùng tham gia, tính chất mức độ và vai trò của từng bị cáo khác nhau nên cần phân hóa trách nhiệm hình sự để xử phạt các bị cáo thì mới bảo đảm được sự nghiêm minh và công bằng của pháp luật.
Đối với bị cáo Nông Văn T là người thực hiện hành vi cầm cái, xóc đĩa cho các bị cáo khác đánh bạc nên cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc hơn các bị cáo khác.
Đối với các bị cáo Vi Văn H, Vi Văn C, Đào Duy P, Chu Văn H1 và Liễu Văn T1 chỉ là những người tham gia đánh mỗ i ván, các con bạc đặt cược số tiền từ 20.000 đồng đến 300.000 đồng vai trò của các bị cáo ngang nhau.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trước khi phạm tội các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi phạm tội các bị cáo khai khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Riêng bị cáo Liễu Văn T1 có bố đẻ là liệt sỹ nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS. Vì vậy, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ này để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo của pháp luật.
Xét thấy các bị cáo Nông Văn T, Vi Văn H, Vi Văn C, Đào Duy P, Chu Văn H1 và Liễu Văn T1 phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy đ ịnh tại khoản 1 Điều 51 của BLHS nên cần áp dụng Điều 65 của BLHS cho các bị cáo được hưởng án treo để các bị cáo tự học tập, cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền đ ịa phương và gia đình cũng có đủ tác dụng.
[6] Về hình phạt bổ sung: xét thấy các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đ ối với các bị cáo.
[7] Đối với người đàn ông tóc bạc khoảng 50 tuổ i và các đối tượng khác có tham gia đánh bạc nhưng bỏ chạy thoát khi Công an huyện Cư Jút vào bắt quả tang. Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên đã quyết định tách hành vi đánh bạc của những người này ra, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.
Đối với anh Hoàng Văn Minh là chủ khu vườn, nơi các đối tượng sử dụng làm địa đ iểm, công cụ để đánh bạc. Tuy nhiên anh Minh không biết nên không có căn cứ để xử lý.
[8] Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 46, Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS:
- Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng của Cơ quan cảnh sát đ iều tra huyện Cư Jút: Trả lại cho bị cáo Vi Văn C số tiền 500.000 đồng, trả lại cho bị cáo Vi Văn H số tiền 3.000.000 đồng là các chủ sở hữu hợp pháp.
- Đối với số tiền 5.640.000 đồng các bị cáo sử dụng Đánh bạc cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước, - Đối với 01 khăn trải bàn màu đỏ, hình tròn, đường kính 1,2m; 01 chén sứ màu trắng; 01 đĩa nhựa hình tròn, đường kính 23cm; 04 con vị hình tròn là các công cụ các bị cáo sử dụng để đánh bạc hiện các vật chứng này không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: các bị cáo Nông Văn T, Vi Văn H, Chu Văn H1, Vi Văn C, Đào Duy P và Liễu Văn T1 phạm tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; đ iểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt b ị cáo Nông Văn T 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Xử phạt bị cáo Vi Văn H 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Xử phạt bị cáo Chu Văn H1 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Xử phạt bị cáo Vi Văn C 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Xử phạt b ị cáo Đào Duy P 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Liễu Văn T1 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (Mười hai) tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao các bị cáo Nông Văn T và Liễu Văn T1 cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông phối hợp cùng với gia đình giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách.
Giao các bị cáo Vi Văn H và Đào Duy P cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Đắk Nông phối hợp cùng với gia đình giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách.
Giao các bị cáo Vi Văn C và Chu Văn H1 cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông phối hợp cùng với gia đình giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS:
- Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng của Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Cư Jút: Trả lại cho bị cáo Vi Văn C số tiền 500.000 đồng, trả lại cho bị cáo Vi Văn H số tiền 3.000.000 đồng.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 5.640.000 đồng (Theo Giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước ngày 11/6/2021 tại Kho bạc Nhà nước huyện C, tỉnh Đắk Nông).
- Tịch thu tiêu hủy: 01 khăn trãi bàn màu đỏ, đường kính 1,2m; 01chén sứ màu trắng; 01 đĩa nhựa hình tròn, đường kính 23cm; 04 con vị hình tròn.
(Đặc điểm các vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/5/2021 giữa cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Jút).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nông Văn T, Liễu Văn T1, Vi Văn H, Chu Văn H1, Vi Văn C và Đào Duy P mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về vấn liên quan của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày nhận được bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tội đánh bạc số 27/2021/HSST
Số hiệu: | 27/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về