Bản án về tội đánh bạc số 24/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2023/ TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2023/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:

1. Tô Văn L, sinh ngày 14 tháng 4 năm 1971 tại tỉnh Q; nơi cư trú: phố T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Q; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: lớp 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Văn V và bà Trương Thị M; vợ: Phạm Thị N, có 02 con, lớn sinh năm 1991 nhỏ sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo đầu thú ngày 08/11/2023, tạm giữ đến ngày 10/11/2023 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại, có mặt.

2. Lăng Thị N, sinh ngày 24 tháng 12 năm 1999 tại tỉnh Đ; nơi cư trú: phố T1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Q; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: lớp 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lăng Văn Đ và bà Hoàng Thị D; chồng: Chu Phi S, có 02 con, lớn sinh năm 2018 nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 14/10/2023, tạm giữ đến ngày 20/10/2023 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 55 phút ngày 14/10/2023, tại khu cổng phụ chợ T thuộc phố Lý Thường Kiệt, thị trấn T, huyện T, tỉnh Q, Công an huyện T phát hiện, bắt quả tang Lăng Thị N đang ghi số lô, số đề cho Nguyễn Văn C (sinh năm 1964, trú tại Xóm 4, xã Hải Phương, huyện H, tỉnh Đ) và Bùi Văn T (sinh năm 1978, trú tại Xóm 8, xã Hải Phương, huyện H, tỉnh Đ). Thu giữ của N số tiền 6.445.000 đồng; 01 tờ giấy kẻ ngang kích thước (17,3 x 25)cm bên trong ghi các số lô, số đề, số ba càng ngày 14/10/2023 và 04 tờ giấy kẻ ngang cùng kích thước (8,4 x 5,9)cm. Thu giữ của Chính 01 tờ giấy kẻ ngang, kích thước (8,4 x 5,9)cm, bên trong ghi các cặp số đề:

39100, lô: 72100Đ, 2750Đ 14/10; thu giữ của Tuyền 01 tờ giấy kẻ ngang, kích thước (8,4 x 5,9)cm, bên trong ghi các cặp số đề: 25100, 52100, lô: 54100Đ, 2750Đ14/10, đề trùng với các cặp số ghi trong tờ giấy kẻ ngang thu giữ của N. Ngoài ra, còn thu giữ của N 01 điện thoại di động nhãn hiệu APPO A92 gắn sim số 0935.730.812.

Đến ngày 08/11/2023, Tô Văn L đến Công an huyện T đầu thú và khai đã thuê Lăng Thị N ghi số lô, số đề và ba càng. Thu giữ của L 01 tờ giấy kẻ ngang, kích thước (29,5 x 19,5)cm bên trong ghi các số lô, số đề và số ba càng ngày 14/10/2023 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S gắn sim số 0394.783.954.

Quá trình điều tra Tô Văn L và Lăng Thi N khai nhận: N bán nước chè tại khu vực cổng phụ chợ T, trước ngày 14/10/2023 L nói chuyện với N được biết có nhiều người đến chỗ N uống nước chè có nhu cầu đánh số lô, số đề và ba càng, nên đã thuê N ghi số lô, số đề và số ba càng cho L, L sẽ trả tiền cho N theo phần trăm lợi nhuận, cụ thể: số đề N được hưởng 15% tổng số tiền ghi được, số lô được hưởng 1.000đ/01 điểm lô và số ba càng thì được hưởng 30% tổng số tiền ghi được, N đồng ý.

Cách thức, chơi số lô, số đề và số ba càng: Người chơi sẽ căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng hàng ngày; nếu chơi đề thì người chơi bỏ tiền ghi số có hai chữ số từ 00 đến 99, nếu số đã ghi trùng với hai số cuối của giải đặc biệt thì người chơi thắng (trúng đề) và được nhận số tiền gấp 80 lần số tiền mua số đề đó; nếu chơi lô thì người chơi ghi số có hai chữ số từ 00 đến 99, với quy định 23.000đ/01 điểm lô, nếu số đã ghi trùng với hai số cuối của một trong 27 giải của kết quả xổ số từ giải đặc biệt đến giải bảy thì người chơi trúng, cứ trúng 01 điểm lô thì người chơi được nhận 80.000đ; nếu chơi ba càng thì người chơi ghi số có ba chữ số từ 000 đến 999, nếu số đã ghi trùng với ba số cuối của giải đặc biệt thì người chơi được nhận số tiền gấp 400 lần số tiền đã bỏ ra mua số ba càng đó. Ngược lại nếu người chơi không trúng thì bị mất (thua) số tiền đã bỏ ra mua các số đề, số lô và số ba càng.

Khoảng 16 giờ ngày 14/10/2023 N bắt đầu ghi số lô, số đề và số ba càng cho L. N lấy 01 tờ giấy làm bảng lô, đề, ba càng và cắt nhiều mảnh giấy nhỏ (gọi là Phơ) để bán số lô, số đề và ba càng cho khách, cụ thể: N đã ghi đầu 9, đầu 0, đầu 2 (mỗi đầu 100.000đ), số 51, 52 (mỗi số 50.000đ), ba càng số 312 (5000đ) cho một số người không quen biết. Đến 17 giờ 55 phút cùng ngày, khi N ghi số lô 72 (100 điểm), số đề 39 (100.000đ) cho Nguyễn Văn C được 2.400.000 đồng; số lô 54 (100 điểm), số lô 27 (50 điểm), số đề 25, 52 (mỗi số 100.000đ) cho Bùi Văn T được 3.650.000 đồng thì bị Công an huyện T bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Ngoài ra, L và N còn khai sau khi ghi các số lô, số đề, số ba càng trên thì N đã chụp ảnh và chuyển qua zalo cho L và được L đồng ý, sau đó L ghi lại thông tin số lô, số đề và số ba càng ra một tờ giấy để theo dõi rồi xóa tin nhắn zalo.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 tờ giấy kẻ ngang, kích thước (17,3 x 25)cm; 01 tờ giấy kẻ ngang, kích thước (29,5 x 19,5)cm và 06 tờ giấy kích thước (8,4 x 5,9) chuyển theo hồ sơ vụ án; 01 điện thoại di động hiệu OPPO A92 (màu xanh), thuê bao số 0935.730.812; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S (màu vàng), thuê bao số 0394.783.954. Đối với số tiền 6.445.000 đồng, Cơ quan điều tra Công an huyện T đã niêm phong gửi Kho bạc Nhà nước huyện T theo quy định.

Tại bản cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 20/11/2023 của VKSND huyện T đã truy tố Tô Văn L và Lăng Thị N về tội “ Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị HĐXX:

Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điều 17, 58; khoản 1, 2, 5 điều 65 - Bộ luật hình sự; xử phạt: Tô Văn L từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo.

Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điều 17, 58; Điều 36 - Bộ luật hình sự; xử phạt Lăng Thị N từ 09 tháng đến 12 tháng Cải tạo không giam giữ. Không khấu trừ thu nhập của Lăng Thị N.

Về vật chứng đề nghị áp dụng: điểm a, b khoản 1 Điều 47 - Bộ luật hình sự;

khoản 2 Điều 106 – Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: số tiền 6.445.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 vỏ màu xanh và 01 điện thoại di động Iphone 6S, vỏ màu vàng. Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay các bị cáo Tô Văn L và Lăng Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng anh Bùi Văn T và anh Nguyễn Văn C, phù hợp với tang vật đã thu giữ được.

Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 17 giờ 55 phút ngày 14/10/2023, tại khu vực cổng phụ chợ T thuộc phố Lý Thường Kiệt, thị trấn T, huyện T, tỉnh Q, Tô Văn L và Lăng Thị N có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức ghi các số lô, số đề và số ba càng cho Nguyễn Văn C, Bùi Văn T và một số người không quen biết kiếm lời, với tổng cộng số tiền đánh bạc bị thu giữ là 6.445.000đ thì bị Công an huyện T phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Do đó hành vi của các bị cáo Tô Văn L và Lăng Thị N đã cấu thành tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Xem xét tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng của các bị cáo Tô Văn L và Lăng Thị N thấy rằng các bị cáo đã thành khẩn khai báo, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo L ra đầu thú, đây là những tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo theo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Xét vai trò của các bị cáo thấy L là người thuê N ghi các số lô, đề và trả phần trăm cho N nên L giữ vai trò chính trong vụ án.

[2]. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đối với các bị cáo Tô Văn L và Lăng Thị N là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Trong quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã cơ bản đảm bảo và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.

[4]. Xét thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì nó đã làm mất trật tự trị an và ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội trên địa bàn khu dân cư nên cần phải xử lý nghiêm các bị cáo trước pháp luật thì mới có tác dụng răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung, làm gương cho người khác. Đối với bị cáo L thấy rằng bị cáo mới phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ để cải tạo, giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội. Đối với bị cáo N do hiện nay còn đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, xét mức độ phạm tội, thấy không cần thiết phải xử phạt tù mà xử phạt Cải tạo không giam giữ cũng đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

Đối với số thời gian bị cáo N bị tạm giữ từ ngày 14/10/2023 đến ngày 20/10/2023 là 07 ngày sẽ được tính để trừ vào thời gian Cải tạo không giam giữ ( 01 ngày tạm giữ bằng 03 ngày Cải tạo không giam giữ). Bị cáo N hiện không có việc làm, thu nhập không ổn định và đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên không khấu trừ thu nhập của N.

Do các bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng phạt tiền đối với các bị cáo.

[5]. Về vật chứng của vụ án: Đối 02 chiếc điện thoại thu của các bị cáo L và N là công cụ dùng vào việc phạm tội, số tiền 6.445.000đ là do phạm tội mà có nên tịch thu sung ngân sách nhà nước. Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại do không còn giá trị sử dụng.

Đối với Nguyễn Văn C, Bùi Văn T có hành vi đánh bạc với Lăng Thị N, nhưng chưa đến mức xử lý hình sự, Công an huyện T đã xử phạt hành chính nên không đề cập.

[6]. Về án phí: các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Tô Văn L và Lăng Thị N – Phạm tội: Đánh bạc.

Căn cứ: khoản 1 Điều 321; điểm i, s - khoản 1, khoản 2 - Điều 51; điều 17, 58; khoản 1, 2, 5 Điều 65 – Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Tô Văn L 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Tô Văn L cho UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Q nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục.

Gia đình bị cáo có trách nhiệm cùng với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ: khoản 1 Điều 321; điểm i, s - khoản 1 - Điều 51; điều 17, 58; Điều 36 – Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Lăng Thị N 09 (chín) tháng Cải tạo không giam giữ (được trừ đi 07 ngày tạm giữ = 21 ngày Cải tạo không giam giữ). Buộc bị cáo Lăng Thị N phải chấp hành 08 tháng 09 ngày Cải tạo không giam giữ. Thời hạn Cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện T nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Lăng Thị N cho UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Q, nơi bị cáo thường trú giám sát giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Q giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian bị cáo chấp hành hình phạt.

Căn cứ: điểm a, b khoản 1 Điều 47 - Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 – Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: số tiền 6.445.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 vỏ màu xanh và 01 điện thoại di động Iphone 6S, vỏ màu vàng (Tình trạng tang vật như biên bản bàn giao tang vật giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự huyện T, số 06/BB-CCTHADS ngày 28/11/2023 và theo biên bản giao nhận tài sản giữa Công an huyện T và Kho bạc nhà nước T, số 08/2023/BBBG- CATY ngày 03/11/2023).

Tịch thu tiêu hủy: 02 sim điện thoại di động.

Căn cứ điểm d khoản 1 điều 125 Bô luật tố tụng hình sự Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn là: Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 26/2023/LC- ĐKNCT ngày 10/11/2023 và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh số 33/2023/QĐ- CQĐT ngày 10/11/2023 của Cơ quan CSĐT huyện T đối với bị cáo Tô Văn L và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 24/2023/LC-ĐKNCT ngày 20/10/2023 và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh số 31/2023/QĐ-CQĐT ngày 20/10/2023 của Cơ quan CSĐT huyện T đối với bị cáo Lăng Thị N.

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí.

Buộc Tô Văn L và Lăng Thị N mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ: Điều 331; 333 – Bộ luật tố tụng hình sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 24/2023/HS-ST

Số hiệu:24/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về