TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 21/2023/HS-ST NGÀY 27/03/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 27 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2025/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Trung H - sinh năm 1976 tại huyện L, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 1, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trung T - sinh năm 1940 và bà Đinh Thị H - sinh năm 1942; vợ: Nguyễn Thị C - sinh năm 1984; con: Có 02 con (con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2010); tiền án, tiền sự: Không.
Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2022 đến ngày 20/12/2022 thì tại ngoại, bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo tại ngoại tại xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ (Có mặt)
2. Nguyễn Văn L - sinh năm 1989 tại huyện L, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 13, xã C, huyện L, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C - sinh năm 1967 và bà Cao Thị T - sinh năm 1968; vợ: Nguyễn Thái H - sinh năm 1991; con: Có 02 con (con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015); tiền án, tiền sự: Không.
Tạm giữ, tạm giam: Không. Hiện bị cáo tại ngoại tại xã C, huyện L, tỉnh Phú Thọ (Có mặt) 3. Nguyễn Đức T - sinh năm 1991 tại huyện L, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 13, xã C, huyện L, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K - sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị T - sinh năm 1971; vợ: Tạ Thị C - sinh năm 1994; con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 86/QĐ-XPVPHC ngày 12/3/2018 của Công an huyện Lâm Thao, xử phạt T 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”. Thành đã nộp tiền phạt xong ngày 20/3/2018.
Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2022 đến ngày 20/12/2022 thì tại ngoại, bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo tại ngoại tại xã C, huyện L, tỉnh Phú Thọ (Có mặt)
4. Đào Ngọc N - sinh năm 1983 tại thị xã P, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Khu H, xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Có (theo công giáo); quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Văn M - sinh năm 1949 (đã chết) và bà Nguyễn Thị P - sinh năm 1953; vợ: Lăng Thị Quỳnh N - sinh năm 1993; con: Có 02 con (con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2020); tiền án, tiền sự: Không.
Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2022 đến ngày 20/12/2022 thì tại ngoại, bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo tại ngoại tại xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ (Có mặt) 5. Lưu Quang C - sinh năm 1982 tại huyện L, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 1, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Quang C - sinh năm 1950 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Q - sinh năm 1952; vợ: Hà Thị Huyền T - sinh năm 1987; con: Có 02 con (con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: Không.
Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2022 đến ngày 20/12/2022 thì tại ngoại, bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo tại ngoại tại xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Hà Thị Huyền T - sinh năm 1987 Địa chỉ: Tổ 7, khu T, phường G, thành phố V, tỉnh Phú Thọ (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 16/12/2022, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức Th, Đào Ngọc N và Nguyễn Trung H đến nhà Lưu Quang C ở khu 1, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ chơi. Thời điểm đó chỉ có một mình C ở nhà, vợ C cùng với 02 con đang ở và học tập tại thành phố Việt trì. Sau đó Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T, Đào Ngọc N và Nguyễn Trung H cùng rủ nhau đánh bạc bằng hình thức chơi bài Sâm, thắng thua bằng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành, các đối tượng trên thống nhất xin C cho đánh bạc tại nhà ở của C. C đồng ý và bảo L, T, N và H lên phòng ngủ tầng 2 nhà của C để đánh bạc. L, T, N và H lên phòng ngủ tầng 2 và ngồi trên tấm thảm được trải sẵn từ trước trên nền phòng để đánh bạc. Lưu Quang C lấy 01 bộ bài tú lơ khơ có 52 quân đưa cho 04 người trên để đánh bạc bằng hình thức đánh “Sâm”.
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 16/12/2022, tổ công tác của Công an huyện Lâm Thao phối hợp Công an xã Xuân Huy, huyện Lâm Thao kiểm tra, phát hiện Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T, Đào Ngọc N và Nguyễn Trung H đang đánh bạc bằng hình thức chơi bài “sâm” ăn tiền tại phòng ngủ tầng 2 của nhà Lưu Quang C, khi kiểm tra Nguyễn Văn L đã bỏ chạy khỏi nơi đang đánh bạc. Thu giữ trên chiếu bạc nơi các đối tượng ngồi đánh bạc tổng số tiền 16.200.000 đồng (Mười sáu triệu hai trăm nghìn đồng), trong đó tại vị trí ngồi của Nguyễn Trung H:
3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng), Nguyễn Đức T: 5.300.000 đồng (Năm triệu ba trăm nghìn đồng), Đào Ngọc N: 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng), Nguyễn Văn L: 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn L, 01 chiếc điện thoại Iphone X màu vàng, bên trong lắp sim số 0332204686 và số tiền 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng), tại góc thảm nơi các Nguyễn Đức T, Đào Ngọc N, Nguyễn Trung H và Nguyễn Văn L ngồi đánh bạc có 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng), số tiền này là của L và T có bài “sâm” trả cho Lưu Quang C. Trong thời gian đánh bạc Lưu Quang C không tham gia đánh mà ngồi xem và cảnh giới cho T, L, H và N đánh bạc, nếu ai có bài sâm thì trả cho C 50.000 đồng.
Cùng ngày 16/12/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lưu Quang C. Quá trình khám xét đã thu giữ 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) và 90 bộ bài tú lơ khơ chưa qua sử dụng.
Ngày 17/12/2022, Nguyễn Văn L đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao đầu thú.
Tại cơ quan cảnh sát điều tra, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T, Đào Ngọc N, Nguyễn Trung H và Lưu Quang C đã khai nhận hành vi đánh bạc như sau:
Sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân gồm bốn chất: Jô, Cơ, Tép, Bích. Mỗi chất có 13 quân bài, lần lượt từ cao xuống thấp là: 2, A, K, Q, J, 10, 9, 8, 7, 6, 5, 4, 3. Khi chơi sẽ chia cho mỗi người chơi 10 quân bài, những quân bài còn lại để xuống chiếu, người chia bài ván đầu tiên là người được đánh trước. Cách đánh bài và trả tiền như sau:
Bộ dây: Là tập hợp 03 quân bài trở lên mà các quân bài có số hoặc chữ kế tiếp nhau, không cần phải cùng chất. Tập hợp quân bài K, A, 2 không được tính là bộ dây.
Bộ đôi: Là tập hợp 02 quân bài cùng số hoặc cùng chữ với nhau. Sáp: Là tập hợp 03 quân bài cùng số hoặc cùng chữ với nhau.
Tứ quý: Là tập hợp 04 quân bài cùng số hoặc cùng chữ với nhau.
Sâm: Trong một ván bài nếu một người chơi báo “sâm” và có bài đánh ra liên tục đến hết bài, không ai chặn được thì người đó được “sâm”. Những người chơi còn lại mỗi người phải trả tiền cho người được Sâm là 1.500.000 đồng. Người có bài “sâm” hoặc người có bài bắt được bài của người báo “sâm” thì bỏ ra 50.000 đồng để trả cho Lưu Quang Chí.
Bắt sâm: Người chơi đã báo Sâm, khi đánh bài mà bị người chơi khác có bài chặn được gọi là “bắt sâm” thì người báo “sâm” phải đền tiền cho người bắt sâm tương ứng số tiền của từng người chơi phải trả cho người có bài “sâm” đó là 6.000.000 đồng.
Treo: Trong một ván bài, nếu một người chơi không đánh được một quân bài nào của mình thì gọi là “treo” và người chơi bị bài “treo” phải trả tiền cho người thắng ván bài đó là 1.000.000 đồng.
Chặt tứ quý: Người chơi đánh quân 2, bị người có “tứ quý” chặn gọi là “Chặt tứ quý”. Người bị chặt tứ quý phải trả tiền cho người chặt tứ quý là 1.000.000 đồng.
Báo đỏ và đền làng: Người chơi còn lại một quân bài phải báo cho người ngồi bên tay trái mình biết là mình còn một quân bài. Người chơi ngồi bên tay trái buộc phải đánh quân bài cao nhất trong 10 quân bài của mình hoặc quân bài mà người “báo đỏ” không thể chặn được. Nếu không đánh bài cao nhất mà để người cho báo đỏ chặn đỡ được thì người đó phải đền làng đó là trả toàn bộ số tiền của những người chơi tương ứng với quân bài còn lại chưa đánh của từng người cho người báo đỏ thắng ván bài đó.
Trong một ván bài, người chơi nào cũng có quyền báo Sâm. Nếu có nhiều người chơi cùng báo “sâm” thì người thắng ở ván bài trước được báo “sâm” trước, nếu người thắng ở ván bài trước không báo “sâm” thì lần lượt những người chơi còn lại tính từ phía tay phải của người thắng ván bài trước được báo “sâm”, nếu không có thì tiếp tục đến người ngồi bên cạnh bên tay phải. Nếu không có ai báo “sâm” thì người thắng ván bài trước được đánh bài trước, sau đó người chơi lần lượt từ trái qua phải của người chia bài đánh bài của mình. Người đánh sau phải đánh lá bài cao hơn lá bài trước của người đánh trước.
Trong lượt đánh, nếu người chơi bỏ lượt đánh của mình thì coi như bỏ cả vòng đánh. Nếu không có ai chặn được tiếp thì người đánh cuối cùng được đánh bài bắt đầu một vòng mới. Người chơi đánh hết lá bài của mình trước gọi là thắng. Những người chơi còn lại đếm quân bài còn lại trên tay để trả tiền, mỗi quân bài tưng ứng với 50.000 đồng. Tiếp theo ván bài mới, người đánh bài thắng được chia bài và được quyền đánh trước.
Số tiền sử dụng để đánh bạc của từng người như sau: Nguyễn Trung H:
3.000.000 đồng, Nguyễn Đức T: 5.000.000 đồng, Đào Ngọc N: 1.800.000 đồng, Nguyễn Văn L: 6.400.000 đồng.
Quá trình đánh bạc, số tiền thắng thua của từng người như sau: Nguyễn Trung H thắng 500.000 đồng, Nguyễn Đức T thắng 300.000 đồng, Nguyễn Văn L thua 900.000 đồng, Đào Ngọc N đánh bài không thắng và không thua.
Về tài sản của các bị cáo: Bị cáo Nguyễn Trung Hải có tài sản là quyền sử dụng đất. Các bị cáo Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Thành, Đào Ngọc Nhâm và Lưu Quang Chí không có tài sản gì có giá trị.
Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKSLT ngày 06 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ truy tố các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T, Đào Ngọc N và Lưu Quang C về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ không thay đổi, bổ sung cáo trạng, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T, Đào Ngọc N và Lưu Quang C phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Đức T.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Trung H và Đào Ngọc N.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Văn L và Lưu Quang C.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Nguyễn Đức T cho UBND xã C, huyện L, tỉnh Phú Thọ giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Nguyễn Đức T có trách nhiệm phối hợp với UBND xã C, huyện L, tỉnh Phú Thọ trong việc giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát và giáo dục bị cáo được thực hiện theo khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Đào Ngọc N từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Lưu Quang C từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Đào Ngọc N và Lưu Quang C. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Đức T.
Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trả lại bị cáo Lưu Quang C 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 16.200.000 đồng (Mười sáu triệu hai trăm nghìn đồng) của các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T và Đào Ngọc N đã sử dụng đánh bạc.
Tịch thu tiêu huỷ 52 quân bài tú lơ khơ; 90 bộ bài tú lơ khơ và 01 thảm vải của bị cáo Lưu Quang C do không có giá trị sử dụng.
Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Hà Thị Huyền T trình bày: Chị là vợ của bị cáo Lưu Quang C. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 16/12/2022, các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T và Đào Ngọc N đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức dùng bộ bài tú lơ khơ 52 quân để đánh xâm tại nhà ở của chị ở khu 1, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ nên bị Công an bắt giữ. Khi các bị cáo đánh bạc thì chị đang làm ở thành phố Việt Trì nên không biết. Khi cơ quan cảnh sát điều tra khám xét nơi ở của vợ chồng chị đã thu giữ 3.500.000 đồng và 90 bộ bài tú lơ khơ, ngoài ra còn thu giữ của vợ chồng chị 01 chiếc thảm vải khi bắt giữ các bị cáo. Số tiền 3.500.000 đồng và chiếc thảm vải là của vợ chồng chị, còn bộ bài tú lơ khơ là của bị cáo Chí mua để cho các bị cáo sử dụng đánh bạc. Chị đề nghị xin được nhận lại 3.500.000 đồng, còn chiếc vải thảm không có giá trị sử dụng nên không nhận lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố và xét xử: Đã thực hiện đúng thẩm quyền; đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhất trí và không có ý kiến gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Hành vi thực hiện của các bị cáo: Tại phiên toà các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T, Đào Ngọc N và Lưu Quang C khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 16/12/2022 tại nhà ở của Lưu Quang C ở khu 1, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T và Đào Ngọc N đang đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức dùng bộ bài tú lơ khơ 52 quân để đánh sâm thì bị tổ công tác của đội cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao bắt quả tang. Số tiền sử dụng đánh bạc của Nguyễn Trung H là 3.000.000 đồng, Nguyễn Văn L là 6.400.000 đồng, Nguyễn Đức T là 5.000.000 đồng, Đào Ngọc N là 1.800.000 đồng. Vật chứng thu giữ nơi các bị cáo đánh bạc là 52 quân bài tú lơ khơ, 16.200.000 đồng, 01 thảm vải, 01 ví giả da bên trong có căn cước công dân của Nguyễn Văn L, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu vàng. Khi khám xét nơi ở của C đã thu giữ 3.500.000 đồng và 90 bộ bài tú lơ khơ.
Xét thấy lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà là hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Lời khai người làm chứng; Vật chứng vụ án và các tài liệu khác lập lưu trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 16.200.000 đồng, các bị cáo nhận thức được đánh bạc là nguyên nhân phá vỡ hạnh phúc gia đình và những tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn thực hiện hành vi đánh bạc để thu lời bất chính. Bị cáo Chí không tham gia đánh bạc cùng với các bị cáo nhưng bị cáo đã sử dụng nơi ở của mình cho các bị cáo đánh bạc và thu tiền của các bị cáo khi có ván bài sâm nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò giúp sức. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội, các bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc của các bị cáo là vi phạm pháp luật nên không tranh luận và bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T, Đào Ngọc N và Lưu Quang C phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Nội dung khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định như sau:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm".
[3] Tính chất vụ án: Xét thấy tính chất vụ án thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trật tự công cộng, làm mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn. Vì vậy, đưa các bị cáo ra xét xử và có hình phạt mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Vai trò đồng phạm: Vụ án có tính chất đồng phạm nhưng giản đơn, không mang tính tổ chức. Các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T và Đào Ngọc N là những người cùng thực hiện hành vi đánh bạc nên vai trò như nhau, bị cáo Lưu Quang C không tham gia đánh bạc nhưng đã chuẩn bị các bộ bài tú lơ khơ cho các bị cáo đánh bạc tại nơi ở của mình và thu tiền của người chơi khi có ván bài sâm. Mặc dù bị cáo L cùng tham gia đánh bạc với các bị cáo nhưng khi tổ công tác của Công an huyện Lâm Thao bắt giữ thì bị cáo bỏ chạy. Khi quyết định hình phạt thì xử phạt Lưu Quang C và Nguyễn Văn L nghiêm khắc hơn các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Đức T và Đào Ngọc N. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo thì cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo để quyết định hình phạt.
[5] Nhân thân; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với từng bị cáo:
Đối với các bị cáo Nguyễn Trung H và Đào Ngọc N: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào, đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đó là “Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Nhân thân của các bị cáo là tốt, có nơi cư trú rõ ràng, lần phạm tội này là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên không cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Đại diện Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đề nghị xử phạt các bị cáo Nguyễn Trung H và Đào Ngọc N mỗi bị cáo từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng là phù hợp. Vì vậy, phạt các bị cáo Nguyễn Trung H và Đào Ngọc N mỗi bị cáo một khoản tiền để nộp ngân sách Nhà nước cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Đối với bị cáo Nguyễn Văn L: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào, được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đó là “Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo đã thực hiện xong nghĩa vụ quân sự, khi thực hiện nghĩa vụ quân sự đã đạt danh hiệu thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác; Bị cáo ra đầu thú”. Nhân thân của bị cáo là tốt, có nơi cư trú rõ ràng, lần phạm tội này là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên không cần cách ly bị cá o ra khỏi đời sống xã hội. Đại diện Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng là phù hợp. Vì vậy, phạt bị cáo một khoản tiền để nộp ngân sách Nhà nước cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Đối với bị cáo Lưu Quang C: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào, được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đó là “Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bố đẻ của bị cáo được tặng Bằng khen, Giấy khen và được tặng kỷ niệm chương tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu”. Nhân thân của bị cáo là tốt, có nơi cư trú rõ ràng, lần phạm tội này là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Đại diện Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng là phù hợp. Vì vậy, phạt bị cáo một khoản tiền để nộp ngân sách Nhà nước cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Đối với bị cáo Nguyễn Đức T: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào, được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đó là “Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo đã thực hiện xong nghĩa vụ quân sự, khi thực hiện nghĩa vụ quân sự đã được tặng danh hiệu Chiến sỹ thi đua tiên tiến”. Nhân thân của bị cáo là đã bi xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt đến nay không tái phạm nên thuộc trường hợp được coi là chưa bị xử phạt hành chính. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, lần phạm tội này là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có thể tự cải tạo ngoài xã hội và việc tự cải tạo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Đại diện Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo là phù hợp. Vì vậy, không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, chỉ cần phạt tù cho hưởng án treo và có sự giám sát của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Xét thấy hình phạt chính của các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Đào Ngọc N và Lưu Quang C là phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo, còn bị cáo Nguyễn Đức T không có tài sản gì nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng:
Xét thấy số tiền 16.200.000 đồng (Trong đó thu giữ của bị cáo H: 3.500.000 đồng, bị cáo L: 5.500.000 đồng, bị cáo N: 1.800.000 đồng, bị cáo T: 5.300.000 đồng và 100.000 đồng là số tiền bị cáo T và L trả cho bị cáo C khi có ván bài sâm) là của các bị cáo đã sử dụng đánh bạc nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
Số tiền 3.500.000 đồng bị thu giữ khi khám xét nơi ở của bị cáo Lưu Quang C. Xét thấy số tiền này là của vợ chồng bị cáo, số tiền này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo C nên trả lại bị cáo C nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Xét thấy 52 quân bài tú lơ khơ và 90 bộ bài tú lơ khơ của bị cáo Lưu Quang C không có giá trị sử dụng; 01 thảm vải là của vợ chồng bị cáo Lưu Quang C, tại phiên tòa bị cáo C và vợ bị cáo Chí là chị Hà Thị Huyền T đều xác định thảm vải không có giá trị sử dụng nên không nhận lại. Vì vậy, tịch thu tiêu hủy 52 quân bài tú lơ khơ, 90 bộ bài tú lơ khơ và 01 thảm vải.
Chiếc ví giả da, căn cước công dân và chiếc điện thoại di động của bị cáo Nguyễn Văn L bị thu giữ. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao đã trả lại bị cáo L nên không giải quyết.
[8] Án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đức T.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Trung H và Đào Ngọc N.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Văn L và Lưu Quang C.
2. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T Đào Ngọc N và Lưu Quang C phạm tội "Đánh bạc".
2.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 06 (Sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án. Bị cáo thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Giao bị cáo Nguyễn Đức T cho UBND xã C, huyện L, tỉnh Phú Thọ giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Nguyễn Đức T có trách nhiệm phối hợp với UBND xã C, huyện L, tỉnh Phú Thọ trong việc giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát và giáo dục bị cáo được thực hiện theo khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
2.3. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
2.4. Xử phạt bị cáo Đào Ngọc N 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
2.5. Xử phạt bị cáo Lưu Quang C 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
3. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Đào Ngọc N và Lưu Quang C. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Đức T.
4. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trả lại bị cáo Lưu Quang C 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 16.200.000 đồng (Mười sáu triệu hai trăm nghìn đồng) của các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T và Đào Ngọc N là số tiền sử dụng đánh bạc.
Tịch thu, tiêu huỷ 52 quân bài tú lơ khơ; 90 bộ bài tú lơ khơ và 01 thảm vải có thước 159cm x 224cm của bị cáo Lưu Quang C do không có giá trị sử dụng.
(Số tiền trả lại bị cáo, thảm vải, quân bài tú lơ khơ và bộ bài tú lơ khơ hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/3/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao).
5. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Nguyễn Trung H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức T, Đào Ngọc N và Lưu Quang C mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 21/2023/HS-ST
Số hiệu: | 21/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lâm Thao - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về