Bản án về tội đánh bạc số 186/2020/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 186/2020/HS-PT NGÀY 20/07/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 20 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 99/2020/HSPT ngày 26 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo Hoàng Đình H, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 66/2020/HSST ngày 24 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Thanh Hóa.

Bị cáo kháng cáo: Hoàng Đình H, sinh năm 1986 tại S, tỉnh Thanh Hóa; trú tại: Thôn 5 xã Thọ P, huyện S, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Đình D (chết) và bà Hoàng Thị H; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 10/6/2010, TAND huyện S xử phạt 6.000.000đ về tội: “Đánh bạc”; tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/01/2019 đến 24/01/2019 thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 03/01/2019, Tổ công tác Công an huyện S tiến hành kiểm tra hành chính tại Nhà nghỉ Long N ở thôn M, xã Dân L, huyện S đã phát hiện tại Phòng số 01 một cặp nam, nữ là: Vi Thị L, sinh năm 1992 ở thôn 14, xã Thọ B và Vũ Đăng Hg, sinh năm 1986 ở Thôn 5, xã Thọ P, huyện S đang có hành vi mua bán dâm. Thu giữ của Vũ Đăng Hg 01 điện thoại Samsung J7 màu đen, 01 điện thoại Nokia 1280 màu xám; thu giữ của Vi Thị L 01 điện thoại OPPO màu trắng và 500.000đ. Vi Thị L khai đã nhiều lần bán dâm qua môi giới của Hoàng Đình H, sinh năm 1986, ở Thôn 5, xã Thọ P, huyện S. Lúc này H đang chờ L ở gần nhà nghỉ chờ L để thanh toán tiền hoa hồng, Tổ công tác đã triệu tập H về Cơ quan điều tra làm việc.

Tại cơ quan điều tra, Hoàng Đình H khai nhận: Do bị tàn tật không có công ăn việc làm nên H tìm gặp Vi Thị L và thỏa thuận sẽ giới thiệu khách mua dâm cho L để nhận tiền Hoa hồng (40% trên số tiền bán dâm mà L được khách trả). Ngày 03/01/2019, Vũ Đăng Hg nhắn tin vào nick của H để tán tỉnh và thỏa thuận việc mua dâm. Hai bên thống nhất giá là 500.000đ, H cung cấp cho Hg số điện thoại của L hẹn 19 giờ cùng ngày, Hg gọi điện thoại cho L hẹn gặp nhau tại nhà nghỉ Long N để mua bán dâm. Đến 20 giờ cùng ngày, khi L và Hg đang thực hiện việc mua bán dâm thì bị bắt và lập biên bản hành chính. Ngoài ra, ngày 15/12/2018, L còn bán dâm cho khách tại nhà nghỉ Long N được 500.000đ, H hưởng hoa hồng 200.000đ.

Qua kiểm tra 01 điện thoại Blackberry màu đen và 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen do H giao nộp, Cơ quan điều phát hiện: Ngoài hành vi môi giới mại dâm, H còn có hành vi đánh bạc bằng hình thức lô đề, bằng cách nhắn tin với Lê Văn Tuấn, sinh năm 1974, ở thôn 6, xã Thọ P, huyện S. Khám xét khẩn cấp nhà Tuấn thu giữ 02 điện thoại OPPO màu vàng, 02 điện thoại Nokia 105 màu đen, 01 điện thoại Nokia 1280 màu xanh. Quá trình điều tra thu giữ của của Vũ Khắc Huân 01 điện thoại OPPO màu đen IMEI 867287029812232 và 867287029812224.

Qua điều tra đã xác định, trước khi bị bắt gần một tháng, H nhận lô, đề từ các con bạc gồm: Anh Mai Văn L, sinh năm 1985; anh Nguyễn Viết D, sinh năm 197; Vũ Khắc H, sinh năm 1990; anh Hoàng Văn Q, sinh năm 1984; anh Lê Văn T sinh năm 1971; anh Nguyễn Viết K, sinh năm 1970; anh Hoàng Sỹ S, sinh năm 1991; anh Vũ Văn N, sinh năm 1982; anh Hoàng Minh H, sinh năm 1980; anh Vũ Khắc N, sinh năm 1993; ông Vũ Khắc Hà, sinh năm 1963, tất cả đều ở xã Thọ P, huyện S, tỉnh Thanh Hóa qua tin nhắn điện thoại, số thuê bao 097390xxxx của H để đánh bạc trực tiếp với các con bạc.

Ngoài ra H còn chuyển bảng một phần cho Lê Văn T trước khi có kết quả lô, đề để hưởng hoa hồng. Một điểm lô người mua phải trả cho H 23.000đ, nếu trúng thưởng H sẽ trả 80.000đ. Một điểm đề (tương ứng 1.000đ) sau khi chiết khấu tiền hoa hồng cho người mua theo thỏa thuận, nếu trúng thưởng H sẽ trả 70.000đ. Cách tính là đối chiếu với kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng cùng ngày, nếu số đề người mua trùng với hai số cuối của giải đặc biệt thì trúng thưởng; nếu số lô người mua trùng với 02 (hai) số cuối của 01(một) trong 27 giải thưởng thì trúng thưởng. Nếu không có ai trúng thưởng thì H được hưởng toàn bộ số tiền của người mua số lô, số đề. Thỏa thuận này trùng với thỏa thuận H và Tuấn.

Cụ thể:

Ngày 07/12/2018 H nhận lô, đề từ các con bạc số tiền 210.000đ, cắt lại cho con bạc 32.000đ, H thực hưởng 178.000 vì con bạc không trúng.

Ngày 15/12/2018 H nhận 300.000đ, cắt lại 45.000đ, H hưởng 255.000đ vì con bạc không trúng.

Ngày 19/12/2018, H nhận 150.000đ, cắt lại 22.500đ, H hưởng 127.500 đ vì con bạc không trúng.

Ngày 30/12/2018, H nhận 120.000đ,,cắt lại 18.000đ, H hưởng 102.000đ vì con bạc không trúng.

Ngày 01/01/2019 H nhận 500.000đ cất lại 45.500đ H hưởng 454.500đ vì con bạc không trúng.

Ngày 02/01/2019, H nhận của các con bạc 5.611.000, cắt lại 236.500đ, tổng số tiền con bạc thắng 9.140.000đ, vậy tổng số tiền H đánh bạc là 14.751.000đ.

Ngày 03/01/2019, H nhận của các con bạc 5.289.000, con bạc cắt lại số tiền 224.000đ, tổng số tiền con bạc thắng 4.810.000đ, vậy tổng số tiền H đánh bạc là 10.099.000đ H chuyển bảng và đánh lô với Lê Văn Tuấn là 5.169.000, được trừ đi 352.000 đ và Tuấn nhận của Hg số tiền 3.725.000đ, cắt lại cho Hg 361.000đ; tổng số tiền con bạc trúng là 5.600.000đ; vậy tổng số tiền Tuấn đánh bạc là 14.494.000đ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 66/2020/HSST ngày 24 tháng 12 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện S đã Quyết định:

Tuyên bố: Hoàng Đình H phạm hai tội: “Môi giới mại dân” và “Đánh bạc”.

Áp dụng: điểm d khoản 2 Điều 328; khoản 1 Điều 321; điểm p, điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 cho cả hai tội; thêm điểm g khoản 1 Điều 52 cho tội “Đánh bạc”.

Xử phạt: Hoàng Đình H 39 (ba mươi chín) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm” và 11 (mười một) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành chung của hai tội là 50 (năm mươi) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/01/2019 đến ngày 24/01/2019. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án, Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên truy thu tiền thu lợi bất chính của bị cáo Hoàng Đình H với số tiền 11.500.000đ; tuyên hình phạt đối với Lê Văn Tuấn; xử lý vật chứng; án phí và giành quyền kháng cáo.

Ngày 30 tháng 12 năm 2019, bị cáo Hoàng Đình H có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo giữ nguyên kháng cáo.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Đình H, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo bị cáo Hoàng Đình H trong thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, Hoàng Đình H khai nhận:

Do bị tàn tật, không vợ con, không có việc làm nên bị cáo đã nảy sinh ý nghĩ kiếm tiền bằng cách lập zalo để hoạt động môi giới mại dâm, nếu ai có nhu cầu bị cáo sẽ trực tiếp thỏa thuận giá cả và cho số điện thoại của gái bán dâm, bị cáo sẽ được hưởng 40% tiền hoa hồng mà gái bán dâm thu được của khách mua dâm. Bằng phương thức nêu trên, từ ngày 15/12/2018 đến 03/01/2019 bị cáo đã môi giới cho Vi Thị L bán dâm 02 lần với giá mỗi lần 500.000đ và bị Công an huyện S phát hiện, bắt giữ.

Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ 07/12/2018 đến 03/01/2019, bị cáo còn có hành vi đánh bạc bằng hình thức chơi lô, đề qua tin nhắn điện thoại, số thuê bao 097390xxxx với 11 đối tượng đều ở xã Thọ P, huyện S, với tổng số tiền đánh bạc là 26.130.000đ, thu lợi bất chính số tiền 11.750.000đ.

Với các hành vi nêu trên, bị cáo Hoàng Đình H phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Môi giới mại dân” theo quy định tại khoản 2 Điều 328 và tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự như bản án sơ thẩm đã xử là đúng người, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo xin hưởng án treo thấy rằng:

Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính và ảnh hưởng đến nếp sống văn minh ở địa phương. Tệ nạn “mại dâm” và “đánh bạc” gây thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng đến hạnh phúc của các gia đình, nạn mại dâm vi phạm đạo dức xã hội và còn là nguyên nhân làm lây lan HIV và các bệnh xã hội nên phải bị xử phạt nghiêm minh. Về nhân thân, năm 2010 bị cáo đã bị đưa ra xét xử về tội “Đánh bạc”, lần này phạm hai tội, trong đó có tội cùng loại, do đó không đủ điều kiện cho hưởng án treo.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm hình phạt thấy rằng:

Khi quyết định hình phạt, bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét tình tiết giảm nhẹ chung cho cả hai tội là: “người khuyết tật nặng”; “thành khẩn khai báo” và có bố đẻ, ông nội là người có công với nước (điểm p, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự). Riêng đối với tội “Đánh bạc” bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “phạm tội hai lần trở lên” (điểm g khoản 1 Điều 52).

Do bị cáo cùng lúc phạm hai tội và với các tình tiết nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo 39 tháng tù về tội “Môi giới mại dâm” và 11 tháng tù về tội “Đánh bạc” là đã có phần chiếu cố giảm nhẹ.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình: Đơn trình bày được UBND xã Thọ P xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ già yếu, bản thân bị khuyết tật nặng không đi lại được; ngoài ra ngày 30/6/2020, bị cáo đã nhờ người thân nộp cho Cơ quan Thi hành án huyện S khoản tiền thu lợi bất chính của tội đánh bạc theo án sơ thẩm đã tuyên 11.750.000đ, là tình tiết theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên mức án cấp sơ thẩm đã xử đối với bị cáo đã được xem xét, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, do đó Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo xin giảm hình phạt.

[5] Ngoài những nội dung nêu trên, tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm rút kinh nghiệm một số sai sót của các Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm như sau:

Tại Bản tự khai không đề ngày của Hoàng Đình H, Điều Tra Viên không ký xác nhận là vi phạm khoản 2 điều 184 Bộ luật tố tụng hình sự, (BL209A). Khi xét xử sơ thẩm, Kiểm sát viên, Thẩm phán không phát hiện được thiếu sót của Cơ quan điều tra nên không đưa vào nhận xét.

Tại Bản án sơ thẩm (trang 3, dòng thứ 17, 18 từ trên xuống) ghi: “Ngoài ra ngày 15/12/2018, L bán dâm cho khách tại Nhà nghỉ Long N được 400.000đ, H hưởng hoa hồng 200.000đ” là có sự nhầm lẫn (BL430). Bởi lẽ quá trình điều tra, Hoàng Đình H khai tỷ lệ ăn chia 40%, Vi Thị L cũng khai lần đầu H môi giới cho khách mua dâm giá 500.000đ, L đưa cho H 200.000đ mà không có tài liệu nào thể hiện L bán dâm được 400.000đ. Bản án sơ thẩm nêu như vậy là không phù hợp với Kết luận điều tra, Cáo trạng của Viện kiểm sát và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ.

Tuy nhiên, những sai sót nêu trên không ảnh hưởng đến bản chất của vụ án và đề nghị của Kiểm sát viên là hoàn toàn có cứ, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm kiến nghị, nhắc nhở các Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

[6] Về án phí: Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên án sơ thẩm về hình phạt, tuy nhiên bị cáo là người khuyết tật nặng, hoàn cảnh gia đình khó khăn được Chính quyền địa phương xác nhận nên Tòa án cấp phúc thẩm miễn án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Đình H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 66/2020/HSST ngày 24 tháng 12 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện S về hình phạt.

Áp dụng: điểm d khoản 2 Điều 328; khoản 1 Điều 321; điểm p, điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 (đối với tội đánh bạc); Điều 38; Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Đình H 39 (Ba mươi chín) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm” và 11 (Mười một) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 50 (Năm mươi) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/01/2019 đến ngày 24/01/2019.

Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án, Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo không phải nộp.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 186/2020/HS-PT

Số hiệu:186/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về