Bản án về tội đánh bạc số 172/2020/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 172/2020/HS-PT NGÀY 01/10/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 01/10/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 164/2020/TLPT-HS ngày 05 tháng 8 năm 2020, đối với các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Trần Đình H, Hồ Xuân H1, Trần Thanh T2, Nguyễn Quốc C, Lê Văn G, Phan Văn S.

Do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Trần Đình H, Hồ Xuân H1, Trần Thanh T2, Nguyễn Quốc C, Lê Văn G, Phan Văn S đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2020/HS-ST ngày 18/6/2020 của Toà án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An.

Các bị cáo có kháng cáo, gồm:

1. Họ và tên: Nguyễn Hoàng P - tên gọi khác: Không; sinh ngày 19 tháng 5 năm 1973, tại xã NA, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 3, xã NA, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 07/12; con ông Nguyễn Hoàng L và bà Nguyễn Thị X; vợ Nguyễn Thị M, sinh năm 1980 và có 02 người con; tiền sự, tiền án: Không; nhân thân: Bản án số 166/1995/HSST ngày 14/9/1995 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắc Lắc xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, hiện đã chấp hành xong bản án; Bản án số 15/1995/HSST ngày 27/9/1995 của Tòa án nhân dân huyện EaH'leo, tỉnh Đắc Lắc xử phạt 46 tháng tù về tội “Cướp tài sản công dân”. Bản án 01/1996/HSPT ngày 22/01/1996, của TAND tỉnh Đắc Lắc xét xử phúc thẩm và xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội “Cướp tài sản công dân”; Ngày 06/10/2006, Công an huyện NĐ xử phạt hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích”; Bản án số 05/2008/HSST ngày 16/4/2008 của Tòa án nhân dân huyện NĐ xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc”; Bản án số 52/2013/HSST ngày 14/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện NĐ xử phạt 03 tháng tù về hành vi “Đánh bạc”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 19/12/2019, hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Trần Đình H - tên gọi khác: Không; sinh ngày 15 tháng 9 năm 1990, tại xã NA, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 3, xã NA, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; con ông Trần Đình C (chết) và bà Nguyễn Thị T; có vợ: Phạm Thị T1, sinh năm 1996 và có 2 người con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 14/2016/HSST ngày 14/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện NĐ xử phạt bị cáo 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng, phạt bổ sung 7.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 19/12/2019, hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Hồ Xuân H1 - tên gọi khác: Không; sinh ngày 10 tháng 10 năm 1986, tại xã NA, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 3, xã NA, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam. quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Hồ Xuân M và bà Phan Thị L; Có vợ Hồ Thị G, sinh năm 1990 và có 2 người con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 17/02/2013, Công an huyện NĐ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 19/12/2019, hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Trần Thanh T2 - Tên gọi khác: Không; sinh ngày 31 tháng 12 năm 1968, tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh; nơi cư trú: Xóm 2, xã NT huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 10/10; là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam đã bị đình chỉ sinh hoạt đảng ngày 22/4/2020; con ông Trần Huy T và bà Nguyễn Thị Hồng L; có vợ Vương Thị Th, sinh năm 1975 và có 02 người con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 19/12/2019, hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

5. Họ và tên: Nguyễn Quốc C - tên gọi khác: Không; sinh ngày 06 tháng 6 năm 1979, tại xã NT, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 5, xã NT, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; con ông Nguyễn Tùng M (chết) và bà Lê Thị H; có vợ Hoàng Thị T2, sinh năm 1983 và có 01 người con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 69/1998/HSST ngày 10/4/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt bị cáo 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 22/12/2019, hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

6. Họ và tên: Lê Văn G - tên gọi khác: Không; sinh ngày 06 tháng 5 năm 1973, tại xã NT, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 6, xã NT, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính:

Nam; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 08/12; con ông Lê Văn T (chết) và bà Phạm Thị L; có vợ Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1974 và có 02 người con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 19/12/2019, hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

7. Họ và tên: Phạm Văn S - tên gọi khác: Không; sinh ngày 21 tháng 4 năm 1984, tại xã NT, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 6, xã NT, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 05/12; con ông Phạm Văn T và bà Đinh Thị B; có vợ Bùi Thị Đoan Tr, sinh năm 1985 và có 3 người con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 19/12/2019, hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra còn có bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có hẹn nhau đánh bạc từ trước, khoảng 10 giờ ngày 16/12/2019, Trần Thanh T2, Trần Hữu C1 đến nhà Nguyễn Võ Ca S, tiếp sau đó có Nguyễn Quốc C và Đặng Đình S đến. Do chưa đủ người nên Nguyễn Võ Ca S gọi Bùi Quốc T3 đến nhà mình để đánh bạc. Sau khi T3 đến, Nguyễn Võ Ca S trải chiếu ở tầng 2 và lấy 01 bát, 01 đĩa màu trắng; T3 sử dụng 01 kéo cán màu vàng cắt 04 con xúc xắc được cắt từ vỏ bao thuốc lá để chuẩn bị đánh bạc. Sau đó, Trần Hữu C1, Nguyễn Quốc C, Đặng Đình S, Bùi Quốc T3 đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa, T3 thua được tính bằng tiền. Quá trình đánh bạc Nguyễn Quốc C là người cầm cái.

Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Nguyễn Hoàng P, Hồ Xuân H1, Trần Đình H và Hoàng Khắc Q cùng đi đến nhà Nguyễn Võ Ca S chơi thì thấy có Trần Hữu C1, Nguyễn Quốc C, Đặng Đình S, Bùi Quốc T3 đang đánh bạc nên P, H1, H vào tham gia đánh bạc cùng. Riêng Q đứng xem, không tham gia đánh bạc. Quá trình các đối tượng đánh bạc Lê Văn G gọi điện thoại cho Trần Thanh T2, Phạm Văn S gọi cho Trần Hữu C1 nên cả hai cùng đi đến và tham gia đánh bạc cùng nhóm đối tượng trên.

Các đối tượng tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa thống nhất về hình thức đánh như sau: Người cầm cái đặt 04 con xúc xắc vào một chiếc đĩa sứ hình tròn, sau đó dùng 01 chiếc bát sứ đậy kín rồi tiến hành xóc nhằm không để các con xúc xắc ở một vị trí nhất định (có thể sấp hoặc ngửa) rồi đặt xuống chiếu. Lúc này, những người chơi sẽ đặt cược của chẵn hoặc cửa lẻ theo ý của mình. Theo quy định thì số tiền đặt cửa tối thiểu trong mỗi ván là 100.000 đồng, số tiền đặt cược tối đa không hạn chế. Khi đã thống nhất các cửa đánh, người cầm cái sẽ mở bát ra, nếu số con xúc xắc cùng màu là chẵn thì người đặt cửa chẵn T3. Lúc đó, những người đặt cửa lẻ sẽ phải trả cho người cầm cái số tiền bằng số tiền họ đã đặt cược. Còn người cầm cái sẽ phải trả cho người đặt cửa chẵn số tiền bằng số tiền họ đã đặt cược. Ngược lại nếu số con xúc xắc cùng màu là lẻ thì người đặt cửa lẻ T3. Lúc đó, những người đặt cửa chắn sẽ phải trả cho người cầm cái số tiền bằng số tiền họ đã đặt cược. Còn người cầm cái sẽ phải trả cho người đặt cửa lẻ số tiền bằng số tiền họ đã đặt cược.

Đến khoảng 14 giờ ngày 16/12/2019, tại nhà Nguyễn Võ Ca S, tổ công tác Công an tỉnh Nghệ An phát hiện và bắt quả tang Lê Văn G, Phạm Văn S, Trần Đình H, Hồ Xuân H1, Bùi Quốc T3, Nguyễn Quốc C, Trần Hữu C1, Đặng Đình S, Nguyễn Hoàng P đang đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa T3 thua được tính bằng tiền mặt, thu giữ tại chiếu bạc 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng); thun giữ trong người các đối tượng 37.840.000 (ba mươi bảy triệu tám trăm bốn mươi ngàn đồng) và một số vật chứng.

- Quá trình điều tra đã xác định được số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 32.990.000 (ba mươi hai triệu, chín trăm chín mươi ngàn đồng), cụ thể: Trần Hữu C1 1.600.000 đồng, Nguyễn Quốc C 6.200.000 đồng, Đặng Đình S 8.800.000 đồng, Bùi Quốc T3 1.000.000 đồng, Nguyễn Hoàng P 1.500.000 đồng, Hồ Xuân H1 7.000.000 đồng, Phạm Văn S 5.100.000 đồng và Lê Văn G 490.000 đồng.

- Trần Thanh T2 không trực tiếp đánh bạc, tuy nhiên khi đến nhà Nguyễn Võ Ca S, T2 mang theo 23.250.000 đồng để cho các đối tượng đánh bạc vay tiền để hưởng lợi từ việc cho vay. Quá trình đánh bạc T2 cho các đối tượng vay 18.000.000 đồng và lấy lãi 700.000 đồng. Trần Thanh T2 đã được Trần Hữu C1 trả lại số tiền 1.000.000 đồng mà C1 đã vay trước đó.

- Nguyễn Võ Ca S không trực tiếp đánh bạc nhưng đã cho các đối tượng đánh bạc tại nhà mình quản lý và thu tiền hồ là 800.000 đồng của 08 đối tượng là C1, C, Phạm Văn S, Đặng Đình S, T3, H1, P, H và lấy 100.000 đồng trên chiếu bạc.

Quá trình đánh bạc, các đối tượng còn trích ra một số tiền mua đồ ăn, đồ uống và thuốc là 3.900.000 đồng (nằm trong số tiền mà các đối tượng dùng vào mục đích đánh bạc, quá trình điều tra không xác định được cụ thể từng người).

Với nội dung trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2020/HS-ST ngày 18/6/2020 của Toà án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An đã tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Võ Ca S phạm tội “Gá bạc”; Đặng Đình S, Bùi Quốc T3, Nguyễn Hoàng P, Trần Thanh T2, Trần Đình H, Lê Văn G, Nguyễn Quốc C, Trần Hữu C1, Hồ Xuân H1, Phạm Văn S phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 BLHS: Xử phạt Nguyễn Võ Ca S 15 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 30 tháng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, v khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS: Xử phạt Đặng Đình S 08 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS: Xử phạt Bùi Quốc T3 08 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS Xử phạt Nguyễn Hoàng P 6 (Sáu) tháng tù; xử phạt Trần Đình H 6 (Sáu) tháng tù; xử phạt Nguyễn Quốc C 6 (Sáu) tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS Xử phạt Trần Thanh T2 6 (Sáu) tháng tù; xử phạt Lê Văn G 6 (Sáu) tháng tù; xử phạt Hồ Xuân H1 6 (Sáu) tháng tù; xử phạt Phạm Văn S 6 (Sáu) tháng tù; xử phạt Trần Hữu C1 6 (Sáu) tháng tù.

Ngoài ra bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 19, 22 và 24/6/2020, các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Hồ Xuân H1, Phạm Văn S, Nguyễn Quốc C, Trần Đình H, Trần Thanh T2 và Lê Văn G làm đơn kháng cáo với nội dung đề nghị cấp phúc thẩm xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Trần Đình H, Hồ Xuân H1, Nguyễn Quốc C, Trần Thanh T2, Lê Văn G và Phan Văn S giữ nguyên nội dung kháng cáo, xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo được hưởng án treo;

Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An:

- Về tố tụng: Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo tham gia phiên tòa

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 và Điều 357 BLTTHS.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Đình H, Hồ Xuân H1, giữ nguyên hình phạt. Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Lê Văn G, sửa bản án, giảm mức hình phạt. Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Quốc C, Trần Thanh T2, Phan Văn S, sửa bản án sơ thẩm, cho các bị cáo hưởng án treo.

Tuyên bố các bị cáo Trần Đình H, Trần Thanh T2, Hồ Xuân H1, Phạm Văn S, Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Quốc C và Lê Văn G phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt Trần Đình H 06 (Sáu) tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt Hồ Xuân H1 06 (Sáu) tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Hoàng P 03 (Ba) tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Quốc C 06 (Sáu) tháng cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt Trần Thanh T2 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt Phạm Văn S 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Lê Văn G 04 (Bốn) tháng tù.

2. Về án phí: Các bị cáo Trần Đình H, Hồ Xuân H1 phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm. Các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Quốc C, Lê Văn G, Trần Thanh T2 và Phan Văn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các bị cáo không tranh luận gì với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Trần Đình H, Hồ Xuân H1, Trần Thanh T2, Nguyễn Quốc C, Lê Văn G, Phan Văn S làm đơn kháng cáo trong hạn luật định, nội dung, hình thức đơn kháng cáo hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai của các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Trần Đình H, Hồ Xuân H1, Trần Thanh T2, Nguyễn Quốc C, Lê Văn G, Phan Văn S tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của các bị cáo, người làm chứng và các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng thời gian từ 10 giờ đến 14 giờ ngày 16/12/2019, Nhằm mục đích thu lợi bất chính từ việc thu tiền hồ của các đối tượng đánh bạc, Nguyễn Võ Ca S đã đồng ý cho các đối tượng Trần Hữu C1, Nguyễn Quốc C, Đặng Đình S, Bùi Quốc T3, Nguyễn Hoàng P, Hồ Xuân H1, Trần Đình H, Lê Văn G, Phan Văn S đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa T3 thua bằng tiền với tổng số tiền là 32.990.000 (ba mươi hai triệu chín trăm chín mươi nghìn đồng) tại tầng 2 nhà mình tại khối Mai Hắc Đế, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Võ Ca S đã phạm tội “Gá bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 322 BLHS. Hành vi của các bị cáo Trần Hữu C1, Bùi Quốc T3, Nguyễn Hoàng P, Trần Đình H, Hồ Xuân H1, Nguyễn Quốc C, Đặng Đình S, Lê Văn G, Phan Văn S đã phạm vào tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự. Đối với Trần Thanh T2 không trực tiếp đánh bạc nhưng đã cho các đối tượng vay tiền để đánh bạc với tổng số tiền là 23.250.000, thu lãi 700.000 đồng. Hành vi của Trần Thanh T2 phải chịu trách nhiệm hình sự đồng phạm về tội: “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2020/HS-ST ngày 18/6/2020 của Toà án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An đã tuyên xử đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người đúng tội.

[3] Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo của các bị cáo;

Bị cáo Nguyễn Hoàng P đối tượng có nhân thân xấu đã bị Tòa án đưa ra xét xử nhiều lần đã được xóa án tích. Xét thấy bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bố mẹ của bị cáo là người có công được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới chưa được xem xét là đã có công giúp đỡ cơ quan điều tra phát hiện tội phạm đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS. Xét thấy tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Do đó có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Bị cáo có nhân thân xấu nên không chấp nhận cho bị cáo hưởng án treo.

Các bị cáo Trần Đình H, Hồ Xuân H1 mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hại không lớn cho xã hội, tính chất vụ án ít nghiêm trọng, có nhân thân xấu, có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, bố mẹ bị cáo là người có công được Nhà nước tặng thưởng H huy chương, bị cáo H1 phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tòa án nhân dân huyện NĐ đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, tính chất, vai trò phạm tội và nhân thân của các bị cáo để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, xử phạt các bị cáo với mức án 06 tháng tù là phù hợp với quy định của pháp luật. Trong quá trình xét xử phúc thẩm các bị cáo không cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho các bị cáo hưởng án treo. Vì vậy, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Đình H và Hồ Xuân H1, giữ nguyên hình phạt.

Bị cáo Nguyễn Quốc C có nhân thân năm 1998 bị Tòa án xét xử về tội trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích, sau khi phạm tội đến nay đều chấp hành các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình; bố mẹ của bị cáo là người có công được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ chưa được xem xét là có công giúp đỡ cơ quan điều tra phát hiện tội phạm đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS. Xét thấy tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Xét thấy chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao cho chính quyền địa phương cải tạo, giáo dục. Do đó có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo, sửa án sơ thẩm, giữ nguyên hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.

Các bị cáo Trần Thanh T2 và Phan Văn S. Xét tính chất vụ án mà các bị cáo gây ra ít nghiêm trọng, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hại không lớn cho xã hội, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án, đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình; bố mẹ của bị cáo là người có công được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo T2 cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ chưa được xem xét là sau khi xét xử sơ thẩm đã có công cứu người đuối nước được UBND xã Nam Thanh xác nhận, giúp đỡ cơ quan điều tra phát hiện tội phạm đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm u khoản 1 Điều 51 BLHS. Đối với Phạm Văn S đã có thành tích xuất sắc trong quá trình hoạt động ở địa phương như năm 2013 đạt giải nhất môn đẩy gậy tại Đại hội TDTT xã Nam Thanh, năm 2014 đạt huy chương bạc môn đẩy gậy tại Đại hội TDTT tỉnh Nghệ An, đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS mà cấp sơ thẩm chưa xem xét. Xét thấy tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Xét thấy chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao cho chính quyền địa phương cải tạo, giáo dục. Do đó có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo, sửa án sơ thẩm, giữ nguyên hình phạt, cho bị được hưởng án treo.

Bị cáo Lê Văn G phạm tội lần đầu thuộc trường hợp nghiêm trọng, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình; có bố mẹ đẻ là người có công được tặng H chương kháng chiến hạng ba nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt là nghiêm khắc. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp chứng cứ về việc trước khi phạm tội đã có công cứu người đuối nước, đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS chưa được xem xét. Xét thấy tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án, tham gia đánh bạc với số tiền ít nhất 490.000 đồng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên chấp nhận một phần kháng cáo, sửa bản án, giảm nhẹ hình phạt. Sau khi phạm tội trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bị cáo lại tiếp tục có hành vi đánh bạc bị Công an huyện NĐ xử phạt hành chính thể hiện sự xem thường pháp luật, vì vậy cần thiết phải cách ly bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục nên không chấp nhận cho bị cáo được hưởng án treo.

[4] Về án phí: Các bị cáo Trần Đình H, Hồ Xuân H1 kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Quốc C, Trần Thanh T2, Phan Văn S và Lê Văn G được chấp nhận một phần kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ các Điều 355; 356 và 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Đình H và Hồ Xuân H1, giữ nguyên hình phạt. Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hoàng P và Lê Văn G, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho các bị cáo. Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Quốc C Trần Thanh T2 và Phan Văn S, sửa bản án sơ thẩm, cho các bị cáo được hưởng án treo.

Tuyên bố các bị cáo Trần Đình H, Trần Thanh T2, Hồ Xuân H1, Phạm Văn S, Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Quốc C và Lê Văn G phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt Nguyễn Hoàng P 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 22/12/2019.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt Trần Đình H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 22/12/2019.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt Hồ Xuân H1 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 19/12/2019.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Nguyễn Quốc C 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm;

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Trần Thanh T2 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm;

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Phạm Văn S 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm;

Giao các bị cáo Nguyễn Quốc C, Nguyễn Thanh T2 và Phan Văn S cho UBND xã Nam Thanh, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Lê Văn G 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 16/12/2019 đến ngày 19/12/2019.

2. Về án phí: Các bị cáo Trần Đình H và Hồ Xuân H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm. Các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Quốc C, Lê Văn G, Trần Thanh T2 và Phan Văn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 172/2020/HS-PT

Số hiệu:172/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về