TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 25/03/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 25 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 77/2021/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số 75/2021/QĐXXST-HS ngày 15/12/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2021/QĐHPT-HS ngày 28/12/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/QĐHPT-HS ngày 11/01/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐHPT-HS ngày 20/01/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/QĐHPT-HS ngày 16/02/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/QĐHPT-HS ngày 28/02/2022, đối với các bị cáo:
1/ Vũ Văn Th, sinh năm 1996. Giới tính: Nam. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn N, xã M, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ văn hóa: 9/12. Họ và tên bố: Vũ Văn Th1 (Đã chết). Họ và tên mẹ: Trương Thị H. Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ ba. Tiền án, tiền sự: Không.
2/ Hoàng Văn Đ, sinh năm 1996. Giới tính: Nam. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: P, phường A, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ văn hóa: 12/12. Họ và tên bố: Hoàng Văn C. Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị L. Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Tiền án, tiền sự: Không.
3/ Trần Văn Ch, sinh năm 1994. Giới tính: Nam. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: H, phường H, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ văn hóa: 09/12. Họ và tên bố: Trần Văn Th2. Họ và tên mẹ: Phạm Thị S. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai. Họ tên vợ: Lý Thị Ph. Tiền án, tiền sự: Không.
4/ Đinh Văn X, sinh năm 1992. Giới tính: Nam. Nơi Đăng ký HKTT và chỗ ở: H, phường H, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ văn hóa: 9/12. Họ và tên bố: Đinh Văn Th3. Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị D. Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba. Họ và tên vợ: Vũ Thị L1. Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không.
5/ Nguyễn Văn T, sinh năm 1996. Giới tính: Nam. Nơi Đăng ký HKTT và chỗ ở: T, phường H, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ văn hóa: 9/12. Họ và tên bố: Nguyễn Văn B. Họ và tên mẹ: Hoàng Thị T1. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không.
6/ Nguyễn Văn Th4, sinh năm 1999. Giới tính: Nam. Nơi Đăng ký HKTT và chỗ ở: P, phường H, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ văn hóa: 09/12. Họ và tên bố: Nguyễn Văn Th. Họ và tên mẹ: Dương Thị H1. Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Tiền án, tiền sự: Không.
7/ Trần Thế T2, sinh năm 1989. Giới tính: Nam. Nơi Đăng ký HKTT và chỗ ở: Phố G, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ văn hóa: 12/12. Họ và tên bố: Trần Văn S1. Họ và tên mẹ: Bùi Thị L2. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại Bản án số 35/2011/HSST ngày 17/11/2011, Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên xử phạt Trần Thế T2 01 năm tù cho hưởng án treo về tội Đánh bạc. Ngày 05/3/2011, T2 chấp hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm và hình phạt bổ sung.
8/ Vũ Văn D1, sinh năm 1995. Giới tính: Nam. Nơi Đăng ký HKTT và chỗ ở: Đ, phường H, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ văn hóa: 12/12. Họ và tên bố: Vũ Văn R. Họ và tên mẹ: Trương Thị Th6. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai. Họ và tên vợ: Phạm Thị Ngọc Th7. Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2021. Tiền án, tiền sự: Không.
Các bị cáo đều bị tạm giữ từ ngày 16/9/2021 đến ngày 19/9/2021 chuyển áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.
Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng:
1/ Lã Văn H2 , sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn L, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.
2/ Vương Công Ngh, sinh năm 1996. Địa chỉ: Thôn P, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.
3/ Nguyễn Văn H3, sinh năm 1995. Địa chỉ: M, H, K, Hải Dương.
4/ Nguyễn Văn Th8, sinh năm 1995. Địa chỉ: Tr, H, K, Hải Dương.
5/ Phạm Thế V, sinh năm 1958. Địa chỉ: T, K, Hải Dương.
Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn D1 đều là công nhân của công ty TNHH Fantasic International thuộc KCN N, địa chỉ tại thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Khoảng 12 giờ ngày 16/9/2021, sau khi ăn cơm tại công ty xong, Th, Đ, Ch, X và T vào trong kho D7 của công ty (Do ông Phạm Thế V, sinh năm 1958 là bảo vệ của công ty được giao trông coi, quản lý) để nghỉ trưa. Lúc này, ông V không ở trong kho D7, Th, Đ, Ch, X và T thống nhất rủ nhau đánh bạc bằng hình thức đánh ba cây được thua bằng tiền tại đây. Sau đó, Th lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân ở gầm bàn trong kho, lọc bỏ 16 quân bài từ 10 đến K để ra ngoài, chia bài rồi cùng Đ, Ch, X, T ngồi xuống nền kho D7 đánh bạc. Khoảng 12 giờ 15 phút cùng ngày, Th4 và T2 đi vào kho rồi cùng tham gia đánh bạc. Tiếp đến, khoảng 12 giờ 20 phút cùng ngày, D1 đi vào kho và cùng tham gia đánh bạc. Khi đánh bạc, Th sử dụng 2.100.000 đồng, Đ sử dụng 1.580.000 đồng, Ch sử dụng 1.200.000 đồng, X sử dụng 700.000 đồng, T sử dụng 500.000 đồng, Th4 sử dụng 2.000.000 đồng, T2 sử dụng 1.000.000 đồng, D1 sử dụng 1.000.000 đồng. Hình thức đánh ba cây được thua bằng tiền, các đối tượng quy định là: Sử dụng 36 quân bài lơ khơ (Từ A đến 9) trộn đều, người chia bài sẽ chia mỗi người 3 quân bài, cộng tổng số 3 quân bài để tính điểm, quy định 10 điểm là cao nhất, thấp nhất là 1 điểm, quân bài A tương ứng với 1 điểm, những người tham gia đánh bạc đặt cược tiền và so điểm với nhau, ai cao điểm hơn sẽ thắng và được số tiền của người thấp điểm hơn đã đặt cược. Mức đặt cược quy định thấp nhất là 20.000 đồng, cao nhất là 50.000 đồng, người thắng sẽ chia bài ván tiếp theo.
Đến 12 giờ 35 phút cùng ngày, trong lúc Th, Đ, Ch, X, T, Th4, T2 và D1 đang đánh bạc thì bị Tổ công tác của Công an huyện Kim Thành phối hợp với Công an thị trấn Phú Thái phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: 36 quân bài từ A đến 9 và 16 quân bài từ 10 đến K; số tiền các đối tượng sử dụng đánh bạc là 10.080.000 đồng, trong đó: Thu tại nền kho giữa vị trí các đối tượng đánh bạc 4.370.000 đồng; thu của Th 200.000 đồng để trước mặt và 1.100.000 đồng tại túi quần bên phải phía trước; thu của Đ 1.500.000 đồng tại túi quần bên phải phía trước; thu của Th4 350.000 đồng để trước mặt và 800.000 đồng tại túi quần bên phải phía sau; thu của T2 1.100.000 đồng để trước mặt; thu của D1 300.000 đồng để trước mặt.
Quá trình điều tra, Vũ Văn Th , Hoàng Văn Đ , Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn D1 đã khai nhận hành vi đánh bạc như trên phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Thành đã thu thập.
Cáo trạng số 79/CT-VKS ngày 29 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn D1 về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, các bị cáo đều xác định Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố các bị cáo về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng; Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên nội dung truy tố và đề nghị:
- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn DI đồng phạm phạm tội Đánh bạc.
- Về điều luật áp dụng:
Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn D1.
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4 và Vũ Văn D1.
Căn cứ khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự đối với các bị Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X.
Căn cứ khoản 1, 2, 3 Điều 36 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn Th4.
Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 35 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Trần Thế T2 và Vũ Văn D1.
Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4 .
Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a, b, c, khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật phí và lệ phí. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
- Về hình phạt:
Hình phạt chính:
- Xử phạt bị cáo Vũ Văn Th từ 10 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 20 đến 24 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ từ 8 đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Xử phạt bị cáo Trần Văn Ch từ 8 tháng đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Xử phạt bị cáo Đinh Văn X từ 7 đến 9 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 14 đến 18 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 18 đến 21 tháng cải tạo không giam giữ về tội đánh bạc, (Được trừ đi 03 ngày tạm giữ từ ngày 16/9/2021 đến ngày 19/9/2021), bị cáo T còn phải chấp hành từ 17 tháng 21 ngày đến 20 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo T cho Ủy ban nhân dân phường H, thị xã K, tỉnh Hải Dương nơi bị cáo T cư trú phối hợp với gia đình bị cáo T giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th4 từ 18 đến 21 tháng cải tạo không giam giữ về tội đánh bạc, (Được trừ đi 03 ngày tạm giữ từ ngày 16/9/2021 đến ngày 19/9/2021), bị cáo Th4 còn phải chấp hành từ 17 tháng 21 ngày đến 20 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Th4 cho Ủy ban nhân dân phường H, thị xã K, tỉnh Hải Dương nơi bị cáo Th4 cư trú phối hợp với gia đình bị cáo Th4 giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Khấu trừ 10 đến 12% thu nhập trong thời gian cải tạo không giam giữ đối với bị cáo Nguyễn Văn T và bị cáo Nguyễn Văn Th4 .
- Xử phạt bị cáo Trần Thế T2 và bị cáo Vũ Văn D1, mỗi bị cáo từ 30.000.000đồng đến 35.000.000đồng sung quỹ Nhà nước.
Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Vũ Văn Th từ 12.000.000đồng đến 15.000.000đồng sung quỹ Nhà nước.
Phạt các bị cáo Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, mỗi bị cáo từ 10.000.000đồng đến 12.000.000đồng sung quỹ Nhà nước.
Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân;
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 10.080.000 đồng.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo, các chứng cứ xác định tội: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo và người làm chứng tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, vật chứng đã thu được và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ 12 giờ đến 12 giờ 35 phút ngày 16/9/2021, tại kho D7 của Công ty TNHH Fantastic International thuộc KCN N, địa chỉ tại thị trấn T, huyện K, tỉnh Hải Dương, các bị cáo Vũ Văn Th , Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn D1 có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh ba cây được thua bằng tiền, tổng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 10.080.000 đồng.
Các bị cáo đều là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
Như vậy, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Vũ Văn Th , Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn D1 đồng phạm phạm tội Đánh bạc. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự
Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn D1 về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, hành vi đó đã vi phạm pháp luật hình sự và gây mất trật tự trị an tại địa phương.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, điều kiện nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án đồng phạm, các bị cáo đều là người trực tiếp thực hiện tội phạm đánh bạc với vai trò người thực hành. Trong đó, bị cáo Th trực tiếp lấy bộ bài và tham gia đánh bạc từ đầu và sử dụng số tiền đánh bạc nhiều nhất, nên giữ vai trò thứ nhất, tiếp theo là các bị cáo Đ, Ch, X, T, các bị cáo Th4, T2 vào sau và bị cáo D1 vào tham gia đánh bạc sau cùng.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không phải chịu tinh tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thái độ thực sự ăn năn hối cải nên các bị cáo đều được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4 và Vũ Văn D1 đều lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Do các bị cáo phạm tội mang tính nhất thời, không có sự bàn bạc, thống nhất và chuẩn bị từ trước; số tiền các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội đánh bạc ít; các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4 và Vũ Văn D1 đều lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào và có nơi làm việc, cư trú rõ ràng, ổn định; bị cáo Trần Thế T2 mặc dù đã bị Tòa án kết án về tội Đánh bạc nhưng đã được xóa án tích nhiều năm và không vi phạm pháp luật thêm lần nào, luôn chấp hành nghiêm chỉnh Pháp luật của Nhà nước, bị cáo T2 nằm trong nhóm các bị cáo sử dụng số tiền ít nhất vào việc đánh bạc, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào và có nơi làm việc, cư trú rõ ràng, ổn định. Hội đồng xét xử nhận thấy cần xem xét chiếu cố, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Vũ Văn Th, không cần thiết phải cách ly bị cáo Th khỏi xã hội mà giao bị cáo Th về cho chính quyền địa phương nơi bị cáo Th cư trú giám sát, giáo dục cũng đảm bảo giáo dục cải tạo bị cáo Th trở thành công dân có ích cho xã hội; không cần thiết áp dụng hình phạt tù mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4; áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo Trần Thế T2 và Vũ Văn D1 cũng đảm bảo tính nghiêm minh của Pháp luật và đủ điều kiện giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý và nhằm thu lợi bất chính thông qua việc đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền nên cần thiết áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự để phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo không bị áp dụng hình phạt chính là phạt tiền.
[4] Về vật chứng: Căn cứ quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, b, c, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Xác định số tiền 10.080.000đồng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc, tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Xác định 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy.
[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Đối với ông Phạm Thế V, là quản lý nhà kho nơi các bị cáo đánh bạc nhung không biết các bị cáo đánh bạc tại kho và không tham gia đánh bạc. Công an huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương không xử lý đối với ông V là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn D1.
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4 và Vũ Văn D1.
Căn cứ khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự đối với các bị Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X.
Căn cứ khoản 1, 2, 3 Điều 36 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4.
Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 35 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Trần Thế T2 và Vũ Văn D1.
Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4 .
1/ Về tội danh: Tuyên bố: Các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn D1 đồng phạm phạm tội Đánh bạc.
2/ Về hình phạt:
Hình phạt chính:
- Xử phạt bị cáo Vũ Văn Th 10 (Mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 (Hai mươi) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Vũ Văn Th cho Ủy ban nhân dân xã M, thị xã K, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Hoàng Văn Đ cho Ủy ban nhân dân phường A, thị xã K, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Xử phạt bị cáo Trần Văn Ch 08 (Tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 (Mười sáu) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Xử phạt bị cáo Đinh Văn X 07 (Bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 (Mười bốn) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Trần Văn Ch và bị cáo Đinh Văn X cho Ủy ban nhân dân phường H, thị xã K, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú trong phạm vi huyện, quân, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thông báo cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm chuyển hồ sơ thi hành án treo cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hưởng án treo đến cư trú để tổ chức việc thi hành án theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ về tội đánh bạc, (Được trừ đi 03 ngày tạm giữ, từ ngày 16/9/2021 đến ngày 19/9/2021), bị cáo T còn phải chấp hành 17 (Mười bảy) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo T cho Ủy ban nhân dân phường H, thị xã K, tỉnh Hải Dương nơi bị cáo T cư trú phối hợp với gia đình bị cáo T giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th4 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ về tội đánh bạc, (Được trừ đi 03 ngày tạm giữ, từ ngày 16/9/2021 đến ngày 19/9/2021), bị cáo Th4 còn phải chấp hành 17 (Mười bảy) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Th4 cho Ủy ban nhân dân phường H, thị xã K , tỉnh Hải Dương nơi bị cáo Th4 cư trú phối hợp với gia đình bị cáo Th4 giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Khấu trừ 10% thu nhập trong thời gian cải tạo không giam giữ đối với bị cáo Nguyễn Văn T và bị cáo Nguyễn Văn Th4 .
- Xử phạt bị cáo Trần Thế T2 và bị cáo Vũ Văn D1, mỗi bị cáo 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng sung quỹ Nhà nước.
Hình phạt bổ sung:
Phạt bị cáo Vũ Văn Th 15.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.
Phạt các bị cáo Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, mỗi bị cáo 10.000.000đồng sung quỹ Nhà nước.
3/ Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 10.080.000 đồng.
(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 13 giờ 30 phút, ngày 30/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương).
4/ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Vũ Văn Th, Hoàng Văn Đ, Trần Văn Ch, Đinh Văn X, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th4, Trần Thế T2 và Vũ Văn D1, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5/ Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội đánh bạc số 16/2022/HS-ST
Số hiệu: | 16/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về