Bản án về tội đánh bạc số 14/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 14/2022/HS-PT NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 12 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 88/2021/TLPT-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo N.T.T và 08 đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2021/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. N.T.T, sinh năm 1969 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp A2, xã B, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: không biết chữ; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông N.V.T (chết) và bà T.T.B (chết); vợ: T.T.H; con: có 02 con, lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1989; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: tại Bản án số: 16/HS-PT ngày 24/01/2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về “Tội đánh bạc”; bị cáo tại ngoại; có mặt.

2. P.V.B, sinh năm 1977 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp TT, xã T, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: mua bán; trình độ văn hóa: 3/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông P.V.H (chết) và bà N.T.B; vợ: T.T.T.N; con: có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2003; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

3. T.T.Y.L, sinh năm 1977 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp T, xã P, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 6/12; giới tính: nữ; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con T.V.L (chết) và bà T.T.M; chồng: N.V.C; con: có 02 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2001; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: ngày 20/12/2020 bị cáo tham gia đánh bạc bị cáo bị Công an xã T, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre bắt quả tang; bị cáo tại ngoại; có mặt.

4. N.V.D, sinh năm 1979 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp A, xã A, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: làm biển; trình độ văn hóa: 3/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông N.V.L (chết) và bà N.T.T; vợ: V.T.T; con: có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2013; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

5. N.T.Đ, sinh năm 1966 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp A, xã A, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: nội trợ; trình độ văn hóa: không biết chữ; giới tính: nữ; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông N.V.H (chết) và bà P.T.Đ; chồng: N.V.K; con: có 02 con, lớn sinh năm 1987, nhỏ sinh năm 1994; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

6. L.H.C, sinh năm 1974 tại tỉnh Bến Tre; nơi đăng ký thường trú: Ấp X, xã S huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: Ấp X, xã P, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre;nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 8/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông L.V.C (chết) và bà N.T.K; vợ: H.T.H; con: có 01 con sinh năm 1994; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/7/2020 đến ngày 28/7/2020, sau đó được trả tự do; bị cáo tại ngoại; có mặt.

7. T.T.C, sinh năm 1981 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp Đ, xã T, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: nuôi trồng thủy sản; trình độ văn hóa: 6/12; giới tính: nữ; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông T.V.P và bà T.T.B; chồng: N.V.T; con: có 02 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2005; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

8. N.T.D, sinh năm 1979 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp G, xã G, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: không biết chữ; giới tính: nữ; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông N.V.O (chết) và bà N.T.Q (chết); chồng: N.V.C; con: có 02 con, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2000; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

9. L.T.H, sinh năm 1968 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp A, xã Q, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 3/12; giới tính: nữ; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông L.V.P (chết) và bà N.T.H (chết); chồng: P.V.T (đã ly hôn); con: có 03 con, lớn sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 1992; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo N.T.T: Bà Đ.T.B.M – Luật sư Văn phòng luật sư Đ.M thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại thửa đất của ông L.V.T (sinh năm 1962, cư trú ở ấp A, xã B, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) bỏ hoang không có người trông coi, nên được các con bạc chọn làm địa điểm chơi đánh bạc ăn thua bằng tiền.

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 19/12/2019, N.T.T đến tụ điểm đánh bạc làm cái lắc tài xỉu cho P.V.B, N.V.D, N.T.Đ, L.H.C, T.T.Y.L, T.T.C, N.T.D, L.T.H và nhiều người khác đặt tiền. Hình thức chơi lắc tài xỉu là tổng số điểm của 03 hột xí ngầu từ 10 điểm trở xuống là “xỉu”, từ 11 điểm trở lên là “tài”, nếu cả 03 mặt của 03 hột xí ngầu cùng giống nhau là “bão”; các con bạc đặt tiền vào bên “xỉu” hoặc bên “tài”; nếu nhà cái (bị cáo N.T.T) lắc có kết quả là “xỉu” thì nhà cái thua bên “xỉu”, thắng bên “tài” và ngược lại; nếu kết quả “bão xỉu” thì nhà cái hòa bên “xỉu”, thắng bên “tài” và ngược lại; Chơi đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng Công an ập đến bắt P.V.B, N.V.D, N.T.Đ, L.H.C, T.T.Y.L, T.T.C, N.T.D, L.T.H, H.N.Y (sinh năm 1959, cư trú ở ấp A, xã K, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) và N.V.T (sinh năm 1979, cư trú ở ấp 2A, xã Z, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre), còn bị cáo N.T.Tvà các đối tượng khác chạy thoát. Đến ngày 20/12/2019, N.T.T ra đầu thú.

Vật chứng và tài sản thu giữ, gồm:

- Thu tại chiếu bạc 55.000.000 đồng được niêm phong trong phong bì số 01, chưa xử lý.

- Thu trên người các con bạc và người liên quan 75.060.000 đồng và 11 điện thoại di động các loại, gồm:

+ N.V.D 36.180.000 đồng và 02 điện thoại di động hiệu Samsung và Iphone (phong bì số 02);

+ L.H.C 300.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu VS Mart (phong bì số 03);

+ N.V.T 7.000.000 đồng và 02 điện thoại di động hiệu Samsung và Nokia (phong bì số 04) + P.V.B 11.750.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia (phong bì số 05);

+ T.T.C 3.400.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Oppo (phong bì số 06);

+ N.T.Đ 700.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia (phong bì số 07);

+ H.N.Y 1.550.000 đồng (phong bì số 08);

09);

10);

+ N.T.D 13.180.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Masstel (phong bì số + T.T.Y.L 200.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung (phong bì số + L.T.H 800.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia (phong bì số 11).

Cơ quan điều tra đã xử lý giao trả cho H.N.Y 1.550.000 đồng, cho N.V.T 7.000.000 đồng và 02 điện thoại di động.

- Thu lúc khám nghiệm hiện trường gồm: 01 đĩa sứ, 01 bình ắc quy màu xanh đen kích thước 0,1 x 0,1 x 0,15m, đoạn dây điện đôi màu đỏ dài 07m và 01 bóng đèn led 100w, 01 tấm bạt nhựa có kích thước 2,85 x 2,9m.

- Truy thu theo lời khai của N.T.T: 02 hột xí ngầu.

Quá trình điều tra, các con bạc khai nhận về số tiền mang theo trong người như sau:

- P.V.B: Ban đầu khai khi đến tụ điểm đánh bạc đem theo 13.200.000 đồng dùng vào việc đánh bạc, chơi thua đến khi bắt quả tang còn lại 11.750.000 đồng bị thu giữ, sau đó lại khai chỉ dùng 1.500.000 đồng để riêng ở túi áo để chơi đánh bạc, số tiền còn lại thì để dùng mua bán.

- T.T.Y.L: Khai đem theo 630.000 đồng để dùng vào việc đánh bạc, chơi thua còn 200.000 đồng thì bị thu giữ khi bắt quả tang.

- N.V.D: Khai đem theo 36.280.000 đồng để trả tiền dầu; khi vào chơi đặt bàn thứ nhất 100.000 đồng thua thì bị bắt quả tang thu giữ trong người 36.180.000 đồng; sau đó khai nhận lấy ra 280.000 đồng dùng vào việc đánh bạc, vừa đặt một bàn 100.000 đồng thua thì bị bắt quả tang.

- N.T.Đ: Khai đem theo 900.000 đồng để dùng vào việc đánh bạc, chơi thua còn 700.000 đồng thì bị bắt quả tang.

- L.H.C: Khai đem theo 1.600.000 đồng để dùng vào việc đánh bạc, chơi thua còn 300.000 đồng thì bị bắt quả tang.

- T.T.C: Khai đem theo 3.600.000 đồng, đặt bàn thứ nhất 100.000 đồng thua, đặt bàn thứ hai số tiền 100.000 đồng thì bị bắt quả tang thu giữ trong người 3.400.000 đồng, số tiền thu giữ trong người không có ý định sử dụng vào mục đích đánh bạc.

- N.T.D: Khai đem theo 13.380.000 đồng, chơi thua 200.000 đồng thì bị bắt quả tang. Số tiền thu giữ 13.180.000 đồng khai qua nhà bà H.N.Y (người bị bắt quả tang) để trả nợ cho bà H.N.Y chứ không dùng để đánh bạc.

- L.T.H: Khai đem theo 900.000 đồng nhằm mục đích đánh bạc, chơi thua 100.000 đồng thì bị bắt quả tang thu giữ 800.000 đồng.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2021/HS-ST ngày 05/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo N.T.T, P.V.B, T.T.Y.L, N.V.D, N.T.Đ, L.H.C, T.T.C, N.T.D và L.T.H phạm tội “Đánh bạc”.

1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.T.T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.T.T bằng hình thức phạt tiền là 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng.

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo P.V.B 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung P.V.B bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.V.D 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.V.D bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

4. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.T.Đ 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.T.Đ bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

5. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo L.H.C 03 (ba) năm tù. Được trừ thời hạn tạm giam là 23 ngày (từ ngày 06/7/2020 đến ngày 28/7/2020). Hình phạt còn lại bị cáo phải chấp hành là 02 (hai) năm 11 (mười một) tháng 07 (bảy) ngày tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung L.H.C bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

6. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58;

Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo T.T.C 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung T.T.C bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

7. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo T.T.Y.L 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung T.T.Y.L bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

8. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.T.D 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.T.D bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

9. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo L.T.H 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung L.T.H bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, cùng ngày 07/10/2021 các bị cáo N.T.T, P.V.B, T.T.Y.L, N.T.Đ, L.H.C, T.T.C, N.T.D và L.T.H kháng cáo yêu cầu giảm hình phạt, được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ và giảm hình phạt bổ sung; bị cáo N.V.D kháng cáo yêu cầu giảm hình phạt, được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ và được nhận lại số tiền đã tịch thu của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận hành vi phạm tội phù hợp bản án sơ thẩm.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định. Về tội danh, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố các bị cáo N.T.T, P.V.B, T.T.Y.L, N.V.D, N.T.Đ, L.H.C, T.T.C, N.T.D và L.T.H phạm “Tội đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo N.T.T, T.T.Y.L; sửa bản án sơ thẩm:

1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N.T.T 03 năm đến 03 năm 03 tháng tù “Tội đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32, khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.T.T bằng hình thức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo T.T.Y.L từ 01(một) năm đến 01 năm 06 tháng tù về “Tội đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung T.T.Y.L bằng hình thức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; các điểm c, e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo: N.V.D, P.V.B, N.T.Đ, N.T.D, L.H.C, L.T.H, T.T.C; sửa bản án sơ thẩm:

3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N.V.D từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.V.D bằng hình thức phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

4. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo P.V.B từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung P.V.B bằng hình thức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

5. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N.T.D từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.T.D bằng hình thức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

6. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo T.T.C từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung T.T.C bằng hình thức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

7. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo L.H.C từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung L.H.C bằng hình thức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

8. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N.T.Đ từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.T.Đ bằng hình thức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

9. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo L.T.H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung L.T.H bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 58.780.000 đồng.

Trả lại cho bị cáo: N.V.D 36.000.000 đồng, P.V.B 11.750.000 đồng, N.T.D 13.180.000 đồng, T.T.C 3.400.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 121.510.000 đồng để đảm bảo cho việc thi hành án.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Người bào chữa cho bị cáo N.T.Ttrình bày: thống nhất về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo. Tuy nhiên sau khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ số tiền 55.000.000 đồng có phải là tổng số tiền đánh bạc vẫn chưa làm rõ được. Số tiền mà các bị cáo đã khai nếu cộng lại thì vẫn chưa đến 40.000.000 đồng nên hành vi của các bị cáo đánh bạc không thuộc khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Bị cáo N.T.Tcó 04 tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đầu thú; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo đã nộp toàn bộ số tiền phạt bổ sung theo bản án sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự cho bị cáo N.T.T.

Lời nói sau cùng, bị cáo N.T.T và bị cáo L.H.C xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo T.T.Y.L xin được hưởng án treo; các bị cáo P.V.B, N.V.D, N.T.Đ, T.T.C, N.T.D và L.T.H không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi đến Tòa án trong thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định.

Do động cơ tư lợi bất chính, từ khoảng 19 giờ 30 phút đến 20 giờ 30 phút ngày 19/12/2019 tại khu đất trống thuộc ấp A, xã B, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, các bị cáo N.T.T, P.V.B, T.T.Y.L, N.V.D, N.T.Đ, L.H.C, T.T.C, N.T.D và L.T.H đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức lắc tài xỉu được thua bằng tiền với số tiền dùng để đánh bạc thu tại chiếu bạc là 55.000.000 đồng và số tiền thu trên người của các bị cáo là 66.510.000 đồng gồm: thu trên người của P.V.B 11.750.000 đồng, của T.T.Y.L 200.000 đồng, của N.V.D 36.180.000 đồng, của N.T.Đ 700.000 đồng, của L.H.C 300.000 đồng, của T.T.C 3.400.000 đồng, của N.T.D 13.180.000 đồng, của L.T.H 800.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo N.V.D, P.V.B, N.T.Đ, T.T.C không thừa nhận tổng số tiền thu trên người của các bị cáo (tổng cộng 64.510.000 đồng) là dùng để đánh bạc. Bị cáo P.V.B khai chỉ dùng số tiền 1.500.000 đồng vào việc đánh bạc, bị cáo N.V.D khai chỉ dùng 280.000 đồng vào việc đánh bạc. Đối với số tiền thu trên người các bị cáo còn lại là 62.830.000 đồng không có chứng cứ để chứng minh số tiền này các bị cáo sẽ dùng vào việc đánh bạc nên không có cơ sở để cộng chung số tiền này vào số tiền dùng vào việc đánh bạc. Các bị cáo T.T.Y.L, N.T.D, L.H.C, L.T.H thừa nhận số tiền thu trên người bị cáo dùng vào việc đánh bạc (tổng cộng 2.000.000 đồng) nên cần cộng số tiền này vào số tiền dùng vào việc đánh bạc. Vì vậy Hội đồng xét xử xác định số tiền đánh bạc là 58.780.000 đồng.

Với ý thức, hành vi, nhân thân và số tiền (58.780.000 đồng) mà các bị cáo đã dùng vào việc đánh bạc, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố các bị cáo N.T.T, P.V.B, T.T.Y.L, N.V.D, N.T.Đ, L.H.C, T.T.C, N.T.D và L.T.H phạm “Tội đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật.

Đây là vụ án thuộc trường hợp phạm tội đồng phạm giản đơn, nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau trong đó bị cáo N.T.T làm cái nên chịu trách nhiệm chính, các bị cáo còn lại tham gia và đặt tụ nên trách nhiệm hình sự ngang nhau như kết luận của bản án sơ thẩm là phù hợp [3] Xét kháng cáo của các bị cáo, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm khi áp dụng hình phạt tù đã xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo N.T.T, P.V.B, N.V.D, N.T.Đ, L.H.C, T.T.C, N.T.D và L.T.H được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo T.T.Y.L được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo N.T.T được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội đầu thú và bị cáo L.H.C được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ là gia đình có công với đất nước được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Do tổng số tiền đánh bạc được xác định là 58.780.000 đồng, các bị cáo chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đánh bạc đối với số tiền này thấp hơn số tiền cấp sơ thẩm xác định là 121.510.000 đồng. Vì vậy cần giảm nhẹ hình phạt cho tất cả các bị cáo.

3.1. Đối với bị cáo N.T.T: Bị cáo là người có vai trò chính trong vụ án đánh bạc có đồng phạm, bị cáo làm tụ cái đánh bạc xuyên suốt quá trình đánh bạc của các bị cáo. Bị cáo có nhân thân xấu nên không có căn cứ xem xét kháng cáo của bị cáo và đề nghị của người bào chữa cho bị cáo đề nghị hạ khung hình phạt theo Điều 54 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên do tổng số tiền các bị cáo đánh bạc được xác định lại thấp hơn bản án sơ thẩm, bị cáo sau khi bỏ trốn đã ra đầu thú, bị cáo được áp dụng thêm tình tiết “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần giảm một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

3.2. Đối với bị cáo T.T.Y.L Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, tại phiên tòa thành khẩn khai báo. Tuy nhiên sau khi bị cáo bị Cơ quan điều tra Công an huyện Ba Tri khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi đánh bạc thì bị cáo tiếp tục về khu vực huyện Mỏ Cày Nam đánh bạc và bị Công an xã T, huyện Mỏ Cày Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc số tiền 1.500.000 đồng. Điều này thể hiện bị cáo không ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, xem thường pháp luật nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian và phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên bị cáo phạm tội lần đầu, số tiền đánh bạc không lớn, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo được áp dụng thêm tình tiết “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng bản án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 03 năm tù là quá nghiêm khắc nên cần giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

3.3. Đối với các bị cáo P.V.B, L.H.C, N.V.D, L.T.H, N.T.Đ, T.T.C, N.T.D đều có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu; các bị cáo được áp dụng thêm tình tiết “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; các bị cáo đồng phạm với vai trò thứ yếu nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và thuộc khung hình phạt thấp hơn liền kề là phù hợp. Xét thấy các bị cáo P.V.B, L.H.C, N.V.D, L.T.H, N.T.Đ, T.T.C, N.T.D có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên có đủ điều kiện để được hưởng án treo nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, xử phạt các bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo và xử phạt hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp nhằm răn đe các bị cáo và giáo dục, phòng ngừa chung.

3.4. Đối với kháng cáo của các bị cáo yêu cầu giảm hình phạt bổ sung là phạt tiền không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Đối với đề nghị của người bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đối với đề nghị áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự cho bị cáo, Hội đồng xét xử không chấp nhận vì bị cáo có vai trò cầm đầu, có nhân thân xấu nên không có cơ sở xem xét. Đối với ý kiến cho rằng tổng số tiền thu tại chiếu bạc, các bị cáo thừa nhận chưa đến 40.000.000 đồng nên cần làm rõ số tiền 55.000.000 đồng thu tại chiếu bạc là của ai. Hội đồng xét xử xét thấy việc lập biên bản phạm tội quả tang thu giữ tiền tại chiếu bạc có các bị cáo chứng kiến và ký tên xác nhận ngay từ đầu, việc lập biên bản có người chứng kiến nên không chấp nhận ý kiến này của người bào chữa.

[5] Về án phí: các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận toàn bộ hoặc một phần.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo, sửa quyết định của bản án sơ thẩm.

1.1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.T.T 03 (ba) năm tù về “Tội đánh bạc”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.T.T bằng hình thức phạt tiền là 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng.

1.2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo P.V.B 01 (một) năm tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-01-2022.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung P.V.B bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

1.3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.V.D 01 (một) năm tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-01-2022.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.V.D bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

1.4. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.T.D 01 (một) năm tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-01-2022.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.T.D bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

1.5. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo L.H.C 01 (một) năm tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-01-2022.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung L.H.C bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

1.6. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo T.T.C 01 (một) năm tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-01-2022.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung T.T.C bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

1.7. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo T.T.Y.L 01 (một) năm tù về “Tội đánh bạc”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung T.T.Y.L bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

1.8. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.T.Đ 01 (một) năm tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-01-2022.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung N.T.Đ bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

1.9. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo L.T.H 01 (một) năm tù về “Tội đánh bạc” nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-01-2022.

Áp dụng khoản 3 Điều 321; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung L.T.H bằng hình thức phạt tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

Giao bị cáo P.V.B cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre; giao bị cáo N.V.D và N.T.Đ cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre; giao bị cáo L.H.C cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre; giao bị cáo T.T.C cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; giao bị cáo N.T.D cho Ủy ban nhân dân xã G, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; giao bị cáo Nguyễn Thị L.T.H cho Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre cùng gia đình phối hợp giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019;

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của Bản án trước và tổng hợp với hình phạt của Bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 58.780.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo: N.V.D 35.900.000 đồng, P.V.B 10.250.000 đồng, N.T.D 13.180.000 đồng, T.T.C 3.400.000 đồng.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 121.510.000 đồng để đảm bảo cho việc thi hành án.

3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

98
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 14/2022/HS-PT

Số hiệu:14/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về