Bản án về tội đánh bạc số 125/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 125/2021/HS-ST NGÀY 16/08/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 126/2021/TLST-HS ngày 23/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133a/2021/QĐXXST-HS ngày 05/8/2021đối với các bị cáo:

1. Vũ Đ, sinh năm 1985.Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ: Không rõ; mẹ đẻ: Vũ Thị Đ - sinh năm 1951, bị cáo là con một; vợ: Nguyễn Thị L - sinh năm 1989; Con có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012;

Tiền án, tiền sự,nhân thân: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2021 đến ngày 27/4/2021, áp dụng biện pháp ‘‘Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn T, sinh năm 1997; Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ: Nguyễn Thế K - sinh năm 1970, đã chết; mẹ đẻ: Trần Thị M- sinh năm 1970; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; Vợ con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự:Không;

Bị cáo hiện tại ngoại bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn M, sinh năm 1974; Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 0/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ: Nguyễn Bá Y - sinh năm 1936; đã chết; mẹ đẻ là: Nguyễn Thị C - sinh năm 1938; gia đình có 09 anh em, bị cáo là con thứ tám; vợ: Trần Thị Thắm, sinh năm 1976,con có 03 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ; sinh năm 1999;

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2021 đến ngày 27/4/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

4.Trần DQ, sinh năm 1997; Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ: Trần Danh S, sinh năm 1970; mẹ đẻ: Nguyễn Thị S, sinh năm 1972; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: bị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng về tội ‘‘Đánh bạc” theo khoản 1, Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999. Chấp hành xong án phí, hình phạt bổ sung ngày 30/8/2013;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2021 đến ngày 27/4/2021được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

5.Nguyễn BM, sinh năm 1979; Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 05/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ: Nguyễn Bá K, đã chết; mẹ đẻ: Nguyễn Thị Đ sinh năm 1942; gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ năm; vợ: Nguyễn Thị T- sinh năm 1982; con có 03 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2017;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2021 đến ngày 27/4/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

6.Trần BC, sinh năm 1985, sinh năm 1986; Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; bố đẻ: Trần Bá H, sinh năm 1953; mẹ đẻ: Nguyễn Thị B, sinh năm 1951; gia đình có 05 anh em, bị cáo là thứ năm;vợ: Phạm Thị H, sinh năm 1987; Con có 03 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016;

Tiền án, Tiền sự, Nhân thân: không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2021 đến ngày 27/4/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

7.Trần B, sinh năm 1987; Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ là: Trần Danh B, sinh năm 1954; mẹ đẻ là: Trần Thị L, sinh năm 1956; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; vợ: Trần Thị Nga, sinh năm 1992; Con có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018;

Tiền án, tiền sự,nhân thân: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2021 đến ngày 27/4/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

8.Nguyễn BN, sinh năm 1990; Giới tính: Nam HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ là: Nguyễn Bá V, sinh năm 1966; mẹ đẻ là: Nguyễn Thị K, sinh năm 1969; gia đình có 03anh chị em, bị cáo là con thứ nhất; vợ: Nguyễn Thúy P, sinh năm 1993;có 03 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2019;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2021 đến ngày 27/4/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

9.Nguyễn F, sinh năm 1985; Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ là: Nguyễn Bá H, sinh năm 1957; mẹ đẻ là: Nguyễn Thị S, sinh năm 1957; gia đình có 03anh chị em, bị cáo là con thứ hai; vợ: Trần Thị X, sinh năm 1993; Con có 03 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2121;

Tiền án, tiền sự,nhân thân: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2021 đến ngày 27/4/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

10.Phạm Găn Thành, sinh năm 1981; Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ là: Phạm Văn X, sinh năm 1959; mẹ đẻ là:Trần Thị T, sinh năm 1958; gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất; vợ: Trần Thị Cương, sinh năm 1986; Con có 04 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2018;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 28/4/2011 bị TAND huyện Quế Võ, xử phạt: 6 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tôi “Đánh bạc”. Đã chấp hành xong tiền phạt và án phí ngày 07/9/2011 Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2021 đến ngày 27/4/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

11. Trần DT, sinh năm 1973; Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn CT, xã NX, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 0/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ: Không rõ; mẹ đẻ là: Trần Thị Đ, sinh năm 1940; gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ tư; vợ: Trần Thị N, sinh năm 1978; Con có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2006;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2021 đến ngày 27/4/2021được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12h45’ ngày 21/4/2021, Công an huyện Quế Võ phối hợp Công an xã Ngọc Xá bắt quả tang tại nhà Vũ Đ, sinh năm 1985, HKTT: Thôn Cựu Tự, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh các đối tượng gồm: Trần DT, sinh năm 1973; Nguyễn BM, sinh năm 1979; Nguyễn BN, sinh năm 1990; Nguyễn M, sinh năm 1974; Nguyễn F, sinh năm 1985; Trần B, sinh năm 1987; Phạm G, sinh năm 1991 và Trần BC, sinh năm 1985 cùng HKTT: Thôn Cựu Tự, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đang đánh bạc ăn tiền bằng hình thức chơi liêng.

Ngoài ra, còn có Vũ Đ và Hoàng Ngọc Thắng, sinh năm 1991, HKTT: Thôn Long Khê, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh có mặt tại nhà Định.

Vật chứng thu giữ: 02 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 02 chiếu cói;

8.760.000 đồng trên chiếu bạc.

Ngoài ra, Công an huyện Quế Võ còn tạm giữ của:

- Vũ Đ: 01 điện thoại di động Sam sung Note 8 màu vàng đã qua sử dụng, số imei: 358333088300762; 01 điện thọai di động Realme 5 Pro màu xanh đã qua sử dụng, số imei: 865071042520457;

- Nguyễn F: 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A10 màu đen đã qua sử dụng, số imei: 337966100237875; 600.000đ tại túi quần trước bên phải đang mặc;

- Nguyễn BN: 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A10 màu đen đã qua sử dụng; 1.000.000đ tại túi áo ngực bên trái; 2.000.000đ tại túi quần trước bên trái đang mặc.

- Trần B: 01 điện thọai di động Realme Q màu trắng đã qua sử dụng , số imei: 868393042552983; 7.500.000đ trong túi quần trước bên phải đang mặc.

- Phạm G: 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A7 (2018) màu đen đã qua sử dụng, số imei: 353465104097934; 4.900.000đ trong ví tại túi quần sau bên phải đang mặc.

- Trần BC: 01 điện thoại di động OPPO A57 màu vàng đã qua sử dụng , số imei: 863902039600351; 1.020.000đ tại túi quần sau bên phải đang mặc;

- Nguyễn M: 01 điện thoại di động OPPO F9 màu xanh đã qua sử dụng , số imei: 860163041862597; 7.000.000đ sau ốp lưng điện thoại OPPO F9.

- Trần DT: 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A40 màu xanh đã qua sử dụng;

- Hoàng Ngọc Thắng: 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A30S màu vàng đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu nâu đã qua sử dụng; 680.000đ tại túi quần sau bên trái đang mặc;

Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đã điều tra, xác minh làm rõ:

Vũ Đ mở quán ăn lẩu mèo tại nhà ở thôn Cựu Tự, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Khoảng 09h ngày 21/4/2021, Định đang ở nhà thì Nguyễn T, sinh năm 1997, HKTT: Thôn Cựu Tự, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh và Trần DQ đến ngồi chơi uống nước, được một lúc thì Nguyễn M đến. Quá trình ngồi chơi, Đông rủ Quân và Minh đánh bạc ăn tiền, đồng thời bảo Định cho các đối tượng đánh bạc trên tầng 2 nhà Định , Định đồng ý. Minh nhờ Định mua hộ bộ bài tú lơ khơ rồi cùng Quân, Đông lên phòng trên tầng 2 nhà Định. Định đi mua 02 bộ bài tú lơ khơ về mang lên tầng 2 đưa cho Minh để các đối tượng đánh bạc, còn Định đi xuống. Ban đầu Đông, Minh, Quân đánh bài ăn tiền bằng hình thức đánh “phỏm”. Đánh khoảng 02 – 03 ván thì Hoàng Ngọc Thắng đến chơi thì chuyển sang đánh bạc ăn tiền bằng hình thức chơi “Liêng”.

Các đối tượng thỏa thuận đặt cược mỗi ván Gà (số tiền cược ban đầu) là 20.000đ (hai mươi nghìn đồng), tố kịch là 200.000đ. Khi đánh được khoảng 20 phút thì Hoàng Ngọc Thắng hết tiền nên đi về chở khách. Sau khi Thắng về thì có Trần DT, Nguyễn BM, Nguyễn BN, Trần BC, Trần B cùng vào tham gia đánh bạc. Trong quá trình đánh bạc, Minh đi vệ sinh nên nhờ Định cầm hộ 02 – 03 ván bài. Đánh bạc đến khoảng hơn 11h cùng ngày thì Đông thua hết tiền nên rủ Quân cùng về. Khi Đông và Quân về thì Phạm G và Nguyễn F đến tham gia đánh bạc. Sau đó, Hoàng Ngọc Thắng cũng quay lại nhưng chỉ xem, không tham gia đánh bạc. Khi các con bạc đánh bạc đến khoảng 12h45’ cùng ngày thì bị Công an huyện Quế Võ phối hợp Công an xã Ngọc Xá bắt quả tang các đối tượng đang đánh bạc ăn tiền tại nhà Định và thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên.

Cùng ngày 21/4/2021, Trần DQ đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đầu thú, giao nộp 940.000 đồng và điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen.

Ngày 02/6/2021, Nguyễn T đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đầu thú.

Các đối tượng thống nhất về cách thức đánh bạc dưới hình thức “Liêng” như sau: Sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân, mỗi người chơi sẽ được chia 03 lá bài để tính điểm. Mỗi ván chơi người chơi có thể: “Tố” (đặt thêm tiền cược cao hơn số tiền của người ở cửa trên đặt, ai là người chia bài đầu tiên sẽ tố trước); “Theo” (đặt tiền cược đúng bằng số tiền của người ở cửa trên đặt); “Tất tay” (đặt cược toàn bộ số tiền mình đang có) hoặc “Úp bài” (người úp bài sẽ bị mất số tiền cược ban đầu và kết thúc ván bài tại đó). Ván bài sẽ kết thúc khi không còn ai tố thêm nữa. Lúc này sẽ mở bài để so điểm, nếu ai cao nhất là thắng và được ăn tiền đặt cược của tất cả người tham gia ở ván bài đó và ăn luôn gà. Cách tính lần lượt là “Sáp”, “Liêng”, “Đĩ” và tính điểm cao thấp. Quy ước nếu người chơi có “Sáp” (03 quân bài giống nhau) sẽ được ăn tiền của tất cả người tham gia đặt cược ở ván bài đó, kể cả số tiền các đối tượng đã đặt “Theo” hoặc “Tố”, đồng thời ăn tiền của tất cả những người tham gia mỗi người 60.000 đồng, nếu người chơi đều có “Sáp” thì người nào “Sáp” cao hơn là thắng. Tiếp đến là “Liêng” (03 quân bài liên tiếp cùng chất) sẽ được ăn tiền của những người tham gia đặt cược ở ván bài đó, kể cả số tiền các đối tượng đã đặt “Theo” hoặc “Tố”, đồng thời ăn tiền của tất cả những người tham gia mỗi người 40.000đ, nếu người chơi đều có “Liêng” thì ai có “Liêng” cao hơn là thắng. Tiếp đến là “Liêng” (03 lá bài liên tiếp nhau không cần cùng chất), tiếp đến là “Đĩ” (03 quân bài đầu người) và cuối cùng là tính điểm, điểm 9 là cao nhất, nếu điểm giống nhau thì so theo chất thứ tự từ “rô”, “cơ”, “tép” và “bích”.

Khi tham gia đánh bạc:

Nguyễn T mang theo số tiền 500.000đ, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc. Khi thua hết tiền đã vay của Tuấn 1.000.000 đ để đánh bạc tiếp. Đánh thua hết tiền thì rủ Trần DQ về.

Trần DQ mang theo số tiền 1.200.000đ, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc. Khi Đông rủ về thì Quân còn 940.000đ.

Nguyễn M mang theo số tiền 7.600.000 đ, sử dụng vào mục đích đánh bạc là1.600.000đ, mới bỏ ra 600.000đ. Khi bị bắt quả tang, Minh đang hòa và để tiền đánh bạc dưới chiếu.

Trần DT mang theo số tiền 640.000 đ, sử dụng hếtvào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Thắng không rõ thắng hay thua và để toàn bộ số tiền dưới chiếu.

Nguyễn BM mang theo số tiền 2.700.000 đ, sử dụng hếtvào mục đíchđánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Mãi không rõ thắng hay thua và để toàn bộ số tiền dưới chiếu.

Nguyễn BN mang theo số tiền 3.500.000 đ, sử dụng vào mục đích đánh bạc là 1.500.000đ, mới bỏ ra 500.000đ. Khi bị bắt quả tang, Văn không rõ thắng hay bị thua và để tiền đánh bạc dưới chiếu.

Trần BC mang theo số tiền1.670.000đ, sử dụng hết vào mục đíchđánh bạc, mới bỏ ra 650.000đ. Khi bị bắt quả tang, Cường không rõ thắng thua và để tiền đánh bạc dưới chiếu.

Trần B mang theo số tiền 10.100.000 đ, sử dụng vào mục đích đánh bạc là1.600.000đồng, đã bỏ ra 1.600.000 đ đánh bạc, cho Quân vay 1.000.000đ để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Tuấn đang thắng và để tiền đánh bạc ở dưới chiếu.

Phạm G mang theo số tiền hơn 5.100.000đ, sử dụng vào mục đích đánh bạc là 700.000 đ, mới bỏ ra 200.000 đ để đánh. Khi bị bắt quả tang Thành đang thua và để tiền đánh bạc ở dưới chiếu.

Nguyễn F mang theo số tiền 960.000 đ, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc, mới bỏ ra 360.000 đ. Khi bị bắt quả tang, Hảo không rõ thắng thua và để tiền đánh bạc dưới chiếu.

Hoàng Ngọc Thắng mang theo số tiền 200.000 đ và sử dụng hết vào mục đích đánh bạc. Khi đánh thua thì đi về chở khách sau đó quay lại xem mọi người đánh bạc và không tham gia đánh bạc Với nội dung trên tại bản Cáo trạng số 93/CT-VKSQV ngày 22 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố: Vũ Đ, Nguyễn T, Nguyễn M, Trần DQ, Nguyễn BM, Trần BC, Trần B, Nguyễn BN, Nguyễn F, Phạm G, Trần DTvề tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015;

Tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi như bản cáo trạng đã nêu, công nhận cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người đúng tội, đề nghị HĐXX xem xét cho các bị cáo được hưởng án treo để có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo: Vũ Đ, Nguyễn T, Nguyễn M, Trần DQ, Nguyễn BM, Trần BC, Trần B, Nguyễn BN, Nguyễn F, Phạm G, Trần DT phạm tội “Đánh bạc”.

+ Áp dụng khoản 1, (khoản 3 đối với bị cáo Thành) Điều 321; điểm i (đối với bị cáo Định, Đông, Minh, Quân, Mãi, Cường, Tuấn, Văn, Hảo, Thắng), điểm s, khoản 1, khoản 2 (đối với bị cáo Đông, Quân và Thành), Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo:

Vũ Đ, Phạm G, mỗi bị cáo từ 10 - 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 20- 30 tháng; bị cáo Nguyễn T từ 09 - 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 18- 24 tháng; bị cáo Nguyễn M,Trần B, Trần DQ và Nguyễn BM, mỗi bị cáo từ 08 - 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 -20 tháng; bị cáo Trần BC, Nguyễn BN, Nguyễn F, Trần DT, mỗi bị cáo từ 07- 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 -18 tháng. Phạt bổ sung bị cáo Thành 10.000.000 đồng – 15.000.000 đồng sung công quỹ Nhà nước.

* Về vật chứng của vụ án:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 13.820.000đ.

- Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 02 chiếu cói đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Định 01 điện thoại di động Sam sung Note 8 màu vàng đã qua sử dụng, số imei: 358333088300762; 01 điện thọai di động Realme 5 Pro màu xanh đã qua sử dụng, số imei: 865071042520457; trả lại cho bị cáo Hảo 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A10 màu đen đã qua sử dụng, số imei: 357966100237875; trả lại cho bị cáo Văn 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A10 màu đen đã qua sử dụng và 2.000.000 đồng; trả lại cho bị cáo Tuấn 01 điện thọai di động Realme Q màu trắng đã qua sử dụng, số imei: 868393042552893 và 7.500.000 đồng; trả lại cho bị cáo Thành 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A7 (2018) màu đen đã qua sử dụng, số imei: 353465104097934 và 4.400.000 đồng; trả lại cho bị cáo Cườn g 01 điện thoại di động OPPO A57 màu vàng đã qua sử dụng, số imei: 863902039600351; trả lại cho bị cáo Minh 01 điện thoại di động OPPO F9 màu xanh đã qua sử dụng, số imei: 860163041862597 và 6.000.000 đồng; trả lại cho bị cáo Thắng 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A40 màu xanh đã qua sử dụng; trả lại cho bị cáo Quân 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen đã qua sử dụng, số imei: 353814081421577 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo nhận tội không có ý kiến tranh luận với vị đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với bản tự khai và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, vì vậy có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 12h45’ ngày 21/4/2021 tại nhà Vũ Đ ở thôn Cựu Tự, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Trần DT, Nguyễn BM, Nguyễn BN, Nguyễn M, Nguyễn F, Trần B, Phạm G và Trần BC thực hiện hành vi đánh bạc ăn tiền dưới hình thức chơi “Liêng” thì bị lực lượng Công an huyện Quế Võ phối hợp Công an xã Ngọc Xá bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định ban đầu có Nguyễn T, Trần DQ, Nguyễn M và Hoàng Ngọc Thắng tham gia đánh bạc. Khi đánh bạc, Đông có 500.000 đồng; Quân có 1.200.000 đồng; Minh có 1.600.000 đồng, Hoàng Ngọc Thắng có 200.000 đồng đều sử dụng vào mục đích đánh bạc. Tổng số tiền đánh bạc của 04 đối tượng là 3.500.000 đồng. Hoàng Ngọc Thắng đánh hết tiền thì đi về, sau đó quay lại xem mọi người đánh bạc.

Tiếp đó có Trần DT, Nguyễn BM, Nguyễn BN, Trần BC, Trần B vào tham gia đánh bạc. Khi đánh bạc, Trần DT có 640.000 đồng, Mãi có 2.700.000 đồng, Văn có 1.500.000 đồng, Cường có 1.670.000 đồng, Tuấn có 1.600.000 đồng. Trong quá trình đánh bạc, Tuấn cho Đông vay 1.000.000 đồng để đánh bạc. Tổng số tiền đánh bạc của 08 đối tượng là: 12.610.000 đồng. Đông đánh bạc bị thua hết tiền nên rủ Quân về.

Khi Quân và Đông về thì Phạm G và Nguyễn F vào tham gia đánh bạc. Khi đánh bạc Thành có 700.000 đồng và Hảo có 960.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc của 08 đối tượng là: 13.330.000 đồng Hành vi nêu trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ xét xử các bị cáo Vũ Đ, Nguyễn T, Nguyễn M, Trần DQ, Nguyễn BM, Trần BC, Trần B, Nguyễn BN, Nguyễn F, Phạm G, Trần DT về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự;

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm để giao dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét tính chất, vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thì thấy:

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Các bị cáo nhất thời phạm tội, không có người đứng ra tổ chức hay có sự phân công chuẩn bị từ trước và không có sự bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau nên không có yếu tố tổ chức.

- Về vai trò của các bị cáo:

Bị cáo Định là chủ nhà, đã đồng ý để cho các bị cáo khác đánh bạc ăn tiền bằng hình thức “liêng” tại nhà mình, biết việc đánh bạc là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã không ngăn cản mà còn đi mua bộ bài tú lơ khơ về để cho các con bạc đánh bạc sát phạt nhau được thua bằng tiền tại nhà ở của mình và trực tiếp đánh bạc cho bị cáo Minh 02 – 03 ván. Do vậy bị cáo là người có vai trò cao hơn các bị cáo khác.

Bị cáo Đông là người rủ các bị cáo khác đánh bạc và tham gia đánh bạc ngay từ đầu cùng với bị cáo Minh và Quân, do vậy bị cáo có vai trò cao hơn các bị cáo khác và thấp hơn bị cáo Định.

Bị cáo Tuấn tham gia đánh bạc sau nhưng bị cáo đã cho bị cáo Đông vay tiền đánh bạc, bị cáo Mãi có số tiền đánh bạc nhiều nhất do vậy các bị cáo Minh, Quân, Tuấn và Mãi có vai trò ngang nhau, thấp hơn các bị cáo Định và Đông.

Các bị cáo Cường, Văn, Hảo, Thành và Thắng tham gia đánh bạc cùng với các bị cáo khác đánh bạc đến khi Công an vào bắt quả tang, các bị cáo có vai trò ngang nhau và thấp hơn các bị cáo khác.

- Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo trong vụ án thì thấy:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Tuy nhiên, bị cáo Thành có nhân thân xấu, ngày 28/4/2011 bị TAND huyện Quế Võ xử 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, Điều 248 BLHS năm 1999 (số tiền đánh bạc là 2.520.000đ). Phạt sung công quỹ nhà nước 3.000.000đ. Bị cáo đã chấp hành xong tiền phạt và án phí ngày 07/9/2011.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo Mãi, Quân, Cường, Đông, Định, Hảo, Minh, Thắng, Tuấn và Văn chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 51 bộ luật Hình sự. Bị cáo Quân, Đông sau khi phạm tội đã đến cơ quan điều tra đầu thú nên được hưởng thêm tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Trong quá trình chuẩn bị xét xử, bị cáo Thành đã nộp 10.200.000 đ để đảm bảo thi hành án, điều đó thể hiện thái độ ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, các bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Riêng đối với bị cáo Thành do tự nguyện nộp tiền đảm bảo thi hành án, không có đơn xin xác nhận hoàn cảnh khó khăn nên HĐXX phạt bị cáo một khoản tiền nhất định sung công quỹ Nhà nước.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đã xử lý vật chứng trả cho Hoàng Ngọc Thắng 02 điện thoại di động và 680.000 đồng.

Đối với 02 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 02 chiếu cói đã qua sử dụng là công cụ, dụng cụ sử dụng vào việc đánh bạc, do vậy cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 13.820.000 đồng (trong đó thu trên chiếu bạc là 8.760.000 đồng và thu trên người các đối tượng đánh bạc và số tiền Đông đầu thú giao nộp là 5.060.000 đồng, cụ thể: bị cáo Cường là 1.020.000 đồng, bị cáo Hảo là 600.000 đồng, bị cáo Minh là 1.000.000 đồng, bị cáo Quân là 940.000 đồng, bị cáo Thành là 500.000 đồng, bị cáo Văn là 1.000.000 đồng) là số tiền dùng vào việc đánh bạc, do vậy cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

10 điện thoại di động các loại và 19.900.000 đồng thu của các bị cáo xác định không liên quan đến tội phạm, do vậy cần trả lại cho bị cáo Định 01 điện thoại di động Sam sung Note 8 màu vàng đã qua sử dụng, số imei: 358333088300762; 01 điện thọai di động Realme 5 Pro màu xanh đã qua sử dụng, số imei: 865071042520457; trả lại cho bị cáo Hảo 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A10 màu đen đã qua sử dụng, số imei: 357966100237875; trả cho bị cáo Văn 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A10 màu đen đã qua sử dụng và 2.000.000 đồng; trả lại cho bị cáo Tuấn 01 điện thọai di động Realme Q màu trắng đã qua sử dụng, số imei: 868393042552893 và 7.500.000 đồng; trả lại cho bị cáo Thành 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A7 (2018) màu đen đã qua sử dụng, số imei: 353465104097934 và 4.400.000 đồng; trả lại cho bị cáo Cường 01 điện thoại di động OPPO A57 màu vàng đã qua sử dụng, số imei: 863902039600351; trả lại cho bị cáo Minh 01 điện thoại di động OPPO F9 màu xanh đã qua sử dụng, số imei: 860163041862597 và 6.000.000 đồng; trả lại cho bị cáo Thắng 01 điện thoại di động S am sung Galaxy A40 màu xanh đã qua sử dụng; trả lại cho bị cáo Quân 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen đã qua sử dụng, số imei: 353814081421577 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Liên quan trong vụ này có:

Khi Hoàng Ngọc Thắng, sinh năm 1991, HKTT: Thôn Long Khê, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đánh bạc ăn tiền với Nguyễn T, Trần DQ và Nguyễn M thì tổng số tiền dùng để đánh bạc lúc đó là 3.500.000đ, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Bản thân Thắng chưa có tiền án, tiền sự về tội “Đánh bạc”, “Tổ chức đánh bạc” nên Công an huyện Quế Võ xử lý hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với Thắng là thỏa đáng.

[6] Về án phí, các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Vũ Đ, Nguyễn T, Nguyễn M, Trần DQ, Nguyễn BM, Trần BC, Trần B, Nguyễn BN, sinh năm Nguyễn F, Phạm G, Trần DT phạm tội “Đánh bạc”.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 65 BLHS xử phạt:

Vũ Đ 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 20 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 65 BLHS, xử phạt:

Phạm G 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 20 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bị cáo Thành 10.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

+ Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 65 BLHS, xử phạt:

Nguyễn T 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 65 BLHS, xử phạt:

Trần DQ 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s, khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 65 BLHS, xử phạt:

Nguyễn M 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trần B 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguyễn BM 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s, khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 65 BLH6, xử phạt:

Trần BC 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguyễn BN 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguyễn F 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trần DT 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo cho UBND xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh giám sát giáo dục.Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

* Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 13.820.000 đồng (trong đó thu trên chiếu bạc là 8.760.000 đồng và thu trên người các đối tượng đánh bạc và số tiền Đông đầu thú giao nộp là 5.060.000 đồng, cụ thể: bị cáo Cường là 1.020.000 đồng, bị cáo Hảo là 600.000 đồng, bị cáo Minh là 1.000.000 đồng, bị cáo Quân là 940.000 đồng, bị cáo Thành là 500.000 đồng, bị cáo Văn là 1.000.000 đồng).

Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 02 chiếu cói đã qua sử dụng. Trả lại cho bị cáo Định 01 điện thoại di động Sam sung Note 8 màu vàng đã qua sử dụng, số imei: 358333088300762; 01 điện thọai di động Realme 5 Pro màu xanh đã qua sử dụng, số imei: 865071042520457; trả lại cho bị cáo Hảo 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A10 màu đen đã qua sử dụng, số imei: 357966100237875; trả lại cho bị cáo Văn 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A10 màu đen đã qua sử dụng và 2.000.000 đồng; trả lại cho bị cáo Tuấn 01 điện thọai di động Realme Q màu trắng đã qua sử dụng, số imei: 868393042552893 và 7.500.000 đồng; trả lại cho bị cáo Cường 01 điện thoại di động OPPO A57 màu vàng đã qua sử dụng, số imei: 863902039600351; trả lại cho bị cáo Minh 01 điện thoại di động OPPO F9 màu xanh đã qua sử dụng, số imei: 860163041862597 và 6.000.000 đồng; trả lại cho bị cáo Thắng 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A40 màu xanh đã qua sử dụng ; trả lại cho bị cáo Quân 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen đã qua sử dụng, số imei: 353814081421577 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Thành 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy A7 (2018) màu đen đã qua sử dụng, số imei: 353465104097934 và 4.400.000 đồng; Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Các bị cáo, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Xác nhận bị cáo Thành đã nộp 10.200.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2014/0006152 ngày 16/8/2021 của Chi cục THADS huyện Quế Võ.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 125/2021/HS-ST

Số hiệu:125/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về