TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TY, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 11/2023/HS-ST NGÀY 19/04/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 19 tháng 4 năm 2023, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện TY xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 đối với các bị cáo:
1/ Hoàng Văn Q1 –Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 24/6/1979, tại Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện TY, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Q3, sinh năm 1950 và con bà Trần Thị T, sinh năm 1950; vợ: Nguyễn Thị P, sinh năm 1982 (đã ly hôn); Con: 02 con (con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2003); Tiền sự: không; Tiền án: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2022 đến ngày 19/12/2022. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà
2/ Hoàng Văn Q2 –Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 16/10/1971, tại Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện TY, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Q3, sinh năm 1950 và con bà Trần Thị T, sinh năm 1950; Vợ: Đỗ Thị Th, sinh năm 1976; Con: 02 con (con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 1995); Tiền sự: không; Tiền án: không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2022 đến ngày 19/12/2022. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà
3/ Hoàng Văn Đ –Tên gọi khác: Không ; Sinh ngày 09/9/1986, tại Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện TY, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn L, sinh năm 1959 và con bà Đặng Thị Ng, sinh năm 1963; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: không; Tiền án: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2022 đến ngày 19/12/2022. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà
4/ Đặng bá L –Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 30/7/1978, tại Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện TY, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn C (đã chết) và con bà Vũ Thị Ng, sinh năm 1939; Vợ: Trần Thị H, sinh năm 1981; Con: 02 con (con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2010); Tiền sự: không; Tiền án: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2022 đến ngày 19/12/2022. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.
5/ Trần Duy Đ –Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 08/01/1977, tại Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn N, xã B, huyện TY, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình C, sinh năm 1954 và con bà Phạm Thị L, sinh năm 1956; Vợ: Ngô Thị Q, sinh năm 1981; Con: 03 con (con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2019); Tiền sự: không; Tiền án: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2022 đến ngày 19/12/2022. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.
6/ Trần Mạnh Th –Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15/02/1989, tại Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn N, xã B, huyện TY, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn V, sinh năm 1958 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: không; Tiền án: không; Nhân thân: Ngày 08/7/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội “Chứa mại dâm”, tại bản án số 592/2010/HSPT.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2022 đến ngày 19/12/2022. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà .
- Người làm chứng:
+ Anh Ngô Bá B, sinh năm 1979. Có mặt Trú tại: Thôn T, xã B, huyện TY, tỉnh Yên Bái
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 15-12-2022, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện TY trên đường đi làm nhiệm vụ đã phát hiện tại phòng ngủ nhà ở của Hoàng Văn Q1 (thuộc Thôn T, xã B, huyện TY, tỉnh Yên Bái) có 06 (sáu) người đang tham gia đánh bạc bằng hình thức chơi “Liêng”, gồm có: Hoàng Văn Q1, Hoàng Văn Q2, Trần Mạnh Th, Trần Duy Đ, Hoàng Văn Đ, Đặng bá L và 01 người ngồi xem, không tham gia đánh bạc là Ngô Bá B. Tổ công tác lập biên bản vụ việc, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 1.780.000 đồng, 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân và 01 chiếc chiếu trúc đã cũ; thu giữ trên người các đối tượng đánh bạc tổng số tiền 7.945.000 (bảy triệu chín trăm bốn mươi lăm nghìn) đồng, cụ thể: Hoàng Văn Q1 2.305.000 đồng, Trần Duy Đ 2.835.000 đồng, Trần Mạnh Th 120.000 đồng, Hoàng Văn Đ 450.000 đồng, Đặng bá L 2.020.000 đồng, Hoàng Văn Q2 215.000 đồng. Ngoài ra còn tạm giữ của các đối tượng tham gia đánh bạc 06 (sáu) chiếc điện thoại di động các loại, 05 (năm) xe mô tô các loại, 02 (hai) căn cước công dân và 02 (hai) ví giả da màu nâu đã qua sử dụng.
Tại Cơ quan điều tra những người tham gia đánh bạc khai nhận:
Vào khoảng 20 giờ ngày 15-12-2022 Hoàng Văn Q1 cùng Hoàng Văn Q2, Hoàng Văn Đ, Trần Duy Đ, Trần Mạnh Th, Ngô Bá B, ngồi chơi uống nước tại nhà của Hoàng Văn Q1 sau đó cùng rủ nhau vào gian phòng ngủ nhà Hoàng Văn Q1 để đánh bạc. Tại đây đã có 01 chiếc chiếu trúc dải sẵn dưới nền nhà, Hoàng Văn Q1 lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân có sẵn từ trước đem ra rồi Hoàng Văn Q1, Hoàng Văn Q2, Hoàng Văn Đ, Trần Duy Đ, Trần Mạnh Th ngồi xuống đánh bạc được thua bằng tiền mặt bằng hình thức đánh “Liêng”, cụ thể như sau: Các đối tượng sử dụng một bộ tú lơ khơ 52 quân làm công cụ đánh bạc, quy ước tiền “Gà” là 10.000 đồng, “Tố” thấp nhất là 10.000 đồng, “Tố” cao nhất là 50.000 đồng. Thứ tự từ lớn đến bé được tính như sau:
- Sáp: Là 03 quân bài giống nhau, to nhất là sáp A, nhỏ nhất là sáp 2.
- Liêng: Là 03 quân bài liên tiếp nhau, to nhất là Q, K, A, nhỏ nhất là A, 2, 3 nếu có liêng bằng nhau thì tính theo chất: Rô, Cơ, Tép, Bích.
- Bộ Đội: Là khi có 03 quân bài không phải là Liêng như J J Q, Q Q K nếu cùng giống nhau thì tính theo chất: Rô, Cơ, Tép, Bích.
- Điểm: Là 03 quân bài không phải là Sáp, Liêng, Bộ đội thì tính điểm. Điểm cao nhất là 9, nhỏ nhất là 0. Các quân bài từ 2 đến 9 được tính là số điểm tương ứng, 10, J, Q và K được tính là 0 điểm còn A được tính là 1 điểm, cả 3 lá bài có tổng trên 10 hoặc trên 20 điểm thì chỉ được tính hàng đơn vị, nếu có người cùng điểm thì tính theo chất: Rô, Cơ, Tép, Bích.
Hình thức chơi như sau: Chọn ra một người chia bài, trước khi chia bài, mỗi người chơi phải đặt cược 10.000 đồng, gọi là tiền “Gà”, sau đó mỗi người được chia 03 quân bài, sau khi lên bài thì tùy vào bài của mình mà có thể úp bỏ bài hoặc chơi tiếp. Người chơi tiếp có thể đặt thêm tiền cược gọi là “Tố”, ai không theo thì úp bỏ bài, ai theo thì tiếp tục đặt thêm tiền và có thể “Tố” thêm, khi không còn ai “Tố” nữa thì tiến hành mở bài và so bài, người nào có bài cao nhất sẽ thắng và được hưởng toàn bộ số tiền đã đặt cược. Hoàng Văn Q1 cùng Hoàng Văn Q2, Hoàng Văn Đ, Trần Duy Đ, Trần Mạnh Th chơi được một lúc thì Đặng bá L đến nhà Hoàng Văn Q1 chơi, thấy mọi người đang đánh bạc nên cũng tham gia cùng. Cả 06 (sáu) đối tượng trên đánh bạc đến khoảng 20 giờ 45 phút thì bị tổ công tác của Công an huyện TY phát hiện, lập biên bản vụ việc.
Quá trình điều tra, xác định được tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 9.725.000 đồng, trong đó: Hoàng Văn Q2 sử dụng 515.000 đồng, Đặng bá L sử dụng 2.270.000 đồng, Trần Mạnh Th sử dụng 350.000 đồng, Hoàng Văn Đ sử dụng 890.000 đồng, Hoàng Văn Q1 sử dụng 2.700.000 đồng, Trần Duy Đ sử dụng 3.000.000 đồng.
Cáo trạng số 09/CT-VKSTY ngày 10-3-2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái, truy tố Hoàng Văn Q1, Hoàng Văn Q2, Trần Duy Đ, Trần Mạnh Th, Hoàng Văn Đ, Đặng bá L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TY giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
* Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn Q1, Hoàng Văn Q2, Hoàng Văn Đ, Trần Duy Đ, Trần Mạnh Th, Đặng bá L phạm tội “Đánh bạc”.
* Về hình phạt:
1. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Mạnh Th từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù.
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.
2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Duy Đ từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.
3. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q1 06 tháng tù đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.
4. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 06 tháng tù đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.
5. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q2 06 tháng tù đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.
6. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng bá L từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.
* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 (năm mươi hai) quân, 01 (một) chiếc chiếu trúc đã qua sử dụng; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 9.725.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc.
* Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
* Về quyền kháng cáo: Đề nghị tuyên theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo. Các bị cáo đều nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận gì chỉ xin giảm nhẹ hình phạt chính lẫn hình phạt bổ sung.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đều xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TY, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TY, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản vụ việc, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng thời gian từ 20 giờ đến 20 giờ 45 phút ngày 15-12-2022, tại nhà riêng của Hoàng Văn Q1 thuộc Thôn T, xã B, huyện TY, tỉnh Yên Bái, Hoàng Văn Q1, Hoàng Văn Q2, Trần Duy Đ, Hoàng Văn Đ, Trần Mạnh Th, Đặng bá L đã tham gia đánh bạc bằng hình thức chơi “Liêng” được thua bằng tiền. Tổng số tiền các bị cáo đã sử dụng để đánh bạc là 9.725.000 đồng.
Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TY truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Đánh bạc là một tệ nạn xã hội mà Nhà nước đang ra sức loại trừ, vì đánh bạc mà nhiều gia đình bị khánh kiệt, nợ nần chồng chất, nó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, cần phải có biện pháp xử lý tương xứng với hành vi các bị cáo đã gây ra nhằm mục đích giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Về nhân thân: Các bị cáo đều là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật song vẫn cố ý thực hiện. Ngày 27/11/2010, bị cáo Trần Mạnh Th bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội “Chứa mại dâm”, tại bản án số 592/2010/HSPT, đến nay đã được xóa án tích; các bị cáo còn lại không có tiền án, tiền sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, cả 06 (sáu) bị cáo đều thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Các bị cáo Hoàng Văn Q1, Hoàng Văn Q2, Hoàng Văn Đ, Đặng bá L, Trần Duy Đ phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn, các bị cáo không có sự phân công, bàn bạc từ trước, các bị cáo đều có vai trò là người thực hành.
[6] Về hình phạt: Bị cáo Trần Mạnh Th đã từng bị kết án, có một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo Trần Duy Đ sử dụng số tiền để đánh bạc nhiều nhất, bị cáo Hoàng Văn Q2 sử dụng nơi ở của bản thân để đánh bạc nên 03 (ba) bị cáo phải chịu mức hình phạt cao hơn; bị cáo Đặng bá L sử dụng số tiền đánh bạc nhiều hơn bị cáo Hoàng Văn Q2 và Hoàng Văn Đ nhưng lại tham giá đánh bạc sau nên cả ba bị cáo này chịu cùng mức hình phạt.
Hội đồng xét xử căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, xét thấy cần phải cách ly các bị cáo Trần Mạnh Th ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
Đối với các bị cáo Hoàng Văn Q1, Trần Duy Đ, Đặng bá L, Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn Q2 có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng có thể cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước.
Về hình phạt bổ sung: Cần phạt các bị cáo một khoản tiền để nộp ngân sách nhà nước.
[7] Đối với anh Ngô Bá B là người có mặt tại nhà Hoàng Văn Q1 tại thời điểm các bị cáo đánh bạc nhưng không tham gia đánh bạc nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.
[8] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ:
Đối với 06 (sáu) chiếc điện thoại di động các loại, 05 (năm) xe mô tô các loại, 02 (hai) căn cước công dân và 02 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho các bị cáo là chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.
Đối với 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 01 (một) chiếc chiếu trúc đã qua sử dụng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với số tiền 9.725.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TY là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn Q1, Hoàng Văn Q2, Hoàng Văn Đ, Đặng bá L, Trần Duy Đ, Trần Mạnh Th phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
2.1. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Mạnh Th 08 (tám) tháng tù, được khấu trừ 03 (ba) ngày bị tạm giữ, còn phải chấp hành 07 (bảy) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Phạt bị cáo 10.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.
2.2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Duy Đ 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Phạt bị cáo 10.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước 2.3. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51;
khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q1 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Phạt bị cáo 10.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.
2.4. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51;
khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng bá L 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Phạt bị cáo 10.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.
2.5. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Phạt bị cáo 10.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước 2.6. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q2 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Phạt bị cáo 10.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.
Giao các bị cáo Hoàng Văn Q1, Hoàng Văn Q2, Hoàng Văn Đ, Trần Duy Đ, Đặng bá L cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện TY, tỉnh Yên Bái để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 (năm mươi hai) quân; 01 (một) chiếc chiếu trúc đã qua sử dụng.
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 9.725.000 đồng (chín triệu bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
(Tình trạng vật chứng được mô tả theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24-3-2023 giữa Cơ quan điều tra với Chi cục thi hành án dân sự huyện TY).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:
Án xử sơ thẩm công khai, các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự .
Bản án về tội đánh bạc số 11/2023/HS-ST
Số hiệu: | 11/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trấn Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về